Ngày 27-8, Phó bí thư thường trực Tỉnh ủy Hồ Thanh Sơn chủ trì hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện Kế hoạch số 110 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao (CNC), nông nghiệp theo hướng hữu cơ gắn với công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ sản phẩm trên địa bàn tỉnh đến năm 2025.
Tham dự hội nghị có Chủ tịch HĐND Thái Bảo; Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Phạm Xuân Hà; Trưởng ban Nội chính Tỉnh ủy Trần Trung Nhân; Phó chủ tịch UBND tỉnh Võ Văn Phi và đông đảo các doanh nghiệp, hợp tác xã, chủ trang trại, nông dân trên địa bàn tỉnh.
Cụ thể kết quả đạt được sau 3 năm thực hiện Kế hoạch số 110 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, tỷ lệ giá trị sản phẩm nông nghiệp chủ lực ứng dụng CNC đạt gần 46,3%, giá trị ước đạt trên 34,7 ngàn tỷ đồng, đạt gần 92,6% mục tiêu đến năm 2025, cao hơn so với kế hoạch đề ra. Toàn tỉnh đã hình thành 8 vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng CNC, có 419 mô hình nông nghiệp ứng dụng CNC, vượt mục tiêu đến năm 2025.
Đồng thời, toàn tỉnh có hơn 885 hécta diện tích sản xuất nông nghiệp theo hướng hữu cơ (đạt gần 0,5% trên tổng diện tích sản xuất nông nghiệp). Tỷ lệ giá trị sản phẩm nông nghiệp chủ lực sản xuất theo quy trình tốt và tương đương đạt gần 10,3%, đạt 41% kế hoạch đến năm 2025.
Cùng đó, toàn tỉnh cũng hình thành 15 vùng sản xuất nông nghiệp theo hướng hữu cơ với quy mô 1.555 hécta, vượt gấp 5 lần so với mục tiêu đến năm 2025. Đến nay, trên địa bàn tỉnh có 9 mô hình đạt chứng nhận hữu cơ với diện tích gần 28 hécta.
Theo Phó bí thư thường trực Tỉnh ủy Hồ Thanh Sơn khẳng định, phát triển nông nghiệp CNC, nông nghiệp theo hướng hữu cơ gắn với công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ sản phẩm là một trong 4 nhiệm vụ đột phá mà Đại hội Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2020-2025 đã xác định. Kết quả, toàn tỉnh có 4/11 chỉ tiêu đã đạt và vượt mục tiêu; 4 chỉ tiêu đảm bảo lộ trình kế hoạch. CNC ngày càng được ứng dụng rộng rãi, nông nghiệp theo hướng hữu cơ, sản xuất nông nghiệp tốt ngày càng phát triển. Công nghiệp chế biến nông sản tiếp tục phát triển, có nhiều chuyển biến tích cực. Kết quả trên góp phần tạo việc làm cho lao động, thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong quá trình triển khai thực hiện vẫn còn những hạn chế, khuyết điểm cần được nghiêm túc nhìn nhận, khắc phục trong thời gian tới. Đó là, tỷ lệ hợp tác xã nông nghiệp hoạt động có hiệu quả còn thấp; việc tiếp cận chính sách ưu đãi về đất đai, tài chính, tín dụng của doanh nghiệp, người dân còn hạn chế, chưa tạo động lực cho phát triển; hạ tầng phục vụ sơ chế, chế biến, bảo quản, đóng gói nông sản đầu tư thiếu đồng bộ, chưa bắt kịp nhu cầu phát triển; đề án Israel triển khai vào thực tế còn nhiều khó khăn, vướng mắc...
Ngoài ra, các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp cần chỉ đạo sát sao hơn nữa để khắc phục những hạn chế và khuyết điểm đã chỉ ra. Tiếp tục tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của người dân. Thời gian tới, cần có kế hoạch chi tiết, lộ trình cụ thể, nguồn lực tương xứng, đồng thời tăng cường công tác theo dõi, kiểm tra, giám sát của người đứng đầu cấp uỷ các cấp, đảm bảo hoàn thành 100% chỉ tiêu đến cuối năm 2025.
Tập trung triển khai thực hiện có hiệu quả các chính sách, chương trình, dự án về phát triển nông nghiệp, nông thôn đã được tỉnh ban hành. Đặc biệt, cần rà soát đánh giá kết quả triển khai thực hiện, đề xuất điều chỉnh nội dung Đề án Israel phù hợp với yêu cầu và thực tiễn. Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ và ưu tiên bố trí chỉ tiêu biên chế đối cán bộ quản lý Nhà nước về lĩnh vực nông nghiệp từ cấp tỉnh đến cấp xã.
Song Anh