Hướng đi nào cho sự phát triển bền vững của công nghệ sinh học tại Việt Nam ?

Công nghệ sinh học đã trở thành một phần không thể thiếu của nhiều quốc gia trên thế giới trong việc thúc đẩy sự phát triển nông nghiệp, nhưng tại Việt Nam, tiến độ phát triển của lĩnh vực này vẫn còn chậm. Một trong những nguyên nhân chính là sự thiếu vắng vai trò của khối tư nhân.

Trong hơn một thập kỷ qua, giống ngô chuyển gen đã có những tác động tích cực đối với nông dân Việt Nam. Điển hình là trường hợp của ông Ngô Văn Tùng, một nông dân tại xã Vân Hồ, tỉnh Sơn La, người đã áp dụng giống ngô kháng sâu, chịu lạnh từ năm 2015. Giống ngô này không chỉ mang lại năng suất cao, mà còn đảm bảo nguồn thức ăn ổn định cho đàn bò sữa của ông, giúp ông và nhiều nông dân khác tăng thu nhập và đảm bảo chất lượng sản phẩm. Giống ngô chuyển gen là một ví dụ điển hình về cách công nghệ sinh học có thể cải thiện đời sống nông dân. Trên thế giới, diện tích cây trồng này hiện đã đạt khoảng 200 triệu ha, trong đó đậu tương và ngô chiếm tỷ lệ lớn. 

cong-nghe-sinh-hoc-la-gi-3-6178acf4-26d0-47de-af32-765d978075aa20240329101727-1728206681.png

Công nghệ sinh học đã tạo ra bước đột phá trong sản xuất nông nghiệp toàn cầu

Trong 30 năm qua, ngành nông nghiệp Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu nhờ công nghệ sinh học. Các kỹ thuật như nuôi cấy mô đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của các loại cây trồng như ngô, đậu tương và bông, giúp cải thiện năng suất và đảm bảo an ninh lương thực. Việt Nam cũng đã ứng dụng thành công công nghệ sinh học vào sản xuất các loại vắc xin phòng bệnh cho gia súc, gia cầm, bao gồm vắc xin chống cúm gia cầm và dịch tả lợn châu Phi.

Tuy nhiên, theo TS. Cao Đức Phát, nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Việt Nam vẫn đang gặp nhiều thách thức trong việc áp dụng công nghệ sinh học một cách rộng rãi. Sự phát triển của lĩnh vực này vẫn còn chậm, và khoảng cách với các nước tiên tiến ngày càng xa hơn. Mặc dù đã có những bước tiến đáng kể trong việc ứng dụng công nghệ sinh học vào nông nghiệp, nhưng sự tham gia của các doanh nghiệp tư nhân vẫn còn rất hạn chế.

Một trong những rào cản lớn nhất đối với sự phát triển của công nghệ sinh học tại Việt Nam là chính sách và cơ chế hỗ trợ còn nhiều bất cập. Theo PGS.TS. Nguyễn Hữu Ninh, Phó vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường, việc thiếu sự tham gia của doanh nghiệp là một trong những nguyên nhân chính khiến cho các nghiên cứu công nghệ sinh học khó có thể được thương mại hóa và áp dụng rộng rãi. Doanh nghiệp vẫn e ngại do các kết quả nghiên cứu thuộc ngân sách Nhà nước thường không mang lại lợi ích rõ ràng cho họ, điều này khiến họ không mặn mà trong việc đầu tư vào lĩnh vực này.

Để công nghệ sinh học tại Việt Nam phát triển mạnh mẽ và bền vững, cần có một hệ thống chính sách khuyến khích sự tham gia của khối tư nhân. Đầu tư vào các phòng thí nghiệm hiện đại, thúc đẩy hợp tác giữa nhà khoa học, doanh nghiệp và cơ quan quản lý là những bước cần thiết để đưa các nghiên cứu công nghệ sinh học từ lý thuyết vào thực tiễn.

Theo Cục trưởng Cục Thú y Nguyễn Văn Long, công nghệ cao là yếu tố then chốt trong việc chẩn đoán và phòng ngừa các dịch bệnh mới nổi. Ngành thú y, với đặc thù liên tục tiếp xúc với các mầm bệnh mới, cần được trang bị những công nghệ hiện đại để đảm bảo an toàn sinh học và bảo vệ sức khỏe động vật.

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng nên học hỏi từ các quốc gia tiên tiến trong khu vực như Nhật Bản, Thái Lan và Philippines. Những kinh nghiệm quý báu về chính sách và công nghệ từ các quốc gia này sẽ giúp Việt Nam phát triển lĩnh vực công nghệ sinh học một cách hiệu quả hơn, đồng thời đáp ứng tốt hơn các thách thức về biến đổi khí hậu và an ninh lương thực.

Công nghệ sinh học là chìa khóa quan trọng để thúc đẩy ngành nông nghiệp Việt Nam phát triển bền vững. Tuy nhiên, để khai thác hết tiềm năng của nó, cần có sự đồng hành từ cả khối nhà nước và tư nhân, cùng với những chính sách khuyến khích mạnh mẽ hơn.

Link nội dung: https://nongthonvaphattrien.vn/huong-di-nao-cho-su-phat-trien-ben-vung-cua-cong-nghe-sinh-hoc-tai-viet-nam-a19364.html