Điện gió và điện gió ngoài khơi, tiềm năng và lợi thế để tăng trưởng xanh

Với trên 3.000 km bờ biển, Việt Nam là một trong những quốc gia có tiềm năng điện gió lớn trên thế giới. Phát triển điện gió nhất là điện gió ngoài khơi là một giải pháp quan trọng, góp phần thay thế các nguồn năng lượng hóa thạch để chuyển sang năng lượng tái tạo, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, đưa phát thải ròng về bằng 0 vào năm 2050.

Theo Nhóm Ngân hàng Thế giới (WBG), tiềm năng kỹ thuật điện gió của Việt Nam khoảng 600 GW, Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 cho biết, gia tăng cơ cấu phát triển nguồn điện năng lượng tái tạo sẽ thúc đẩy điện gió ngoài khơi với những mục tiêu phát triển phù hợp.

Nhằm thúc đẩy phát triển năng lượng sạch và điện gió, Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo Việt Nam nhận xét, với vị trí địa lý và điều kiện khí hậu thuận lợi, Việt Nam có tiềm năng tốt về năng lượng gió ngoài khơi. Nhờ công nghệ phát triển với chi phí cạnh tranh so với năng lượng truyền thống, nguồn năng lượng gió sẽ giữ vai trò quan trọng trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH-HĐH) đất nước và đảm bảo an ninh, phát triển bền vững quốc gia.

Trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm quốc tế và từ những bài học của các quốc gia hàng đầu thế giới, bài viết tổng hợp những nét nổi bật về tềm năng và lợi thế phát triển  của điện gió trong tăng trưởng xanh.

dienj-gio-1-1679546333.jpg

Cơ hội và thách thức trong phát triển điện gió ở Việt Nam

Điện gió, nhất là điện gió ngoài khơi (ĐGNK) là một trong những ngành năng lượng phát triển nhanh, được coi là động lực của quá trình chuyển đổi năng lượng toàn cầu. Giám đốc Quốc gia Hội đồng Năng lượng Gió Toàn cầu (GWEC) cho biết, Việt Nam có tiềm năng điện gió ngoài khơi thuộc vào hàng tốt nhất khu vực châu Á, công suất phát điện gió có thể lên tới 600 GW. Với tham vọng đưa quy mô điện gió ngoài khơi lên 7GW vào năm 2030, đây là bước quan trọng để hoàn thành mục tiêu loại bỏ dần sử dụng nhiên liệu hóa thạch và đưa phát thải ròng về 0 (Net Zero) của Chính phủ.

Là nước nhiệt đới với bờ biển dài hơn 3.200km và  tổng diện tích khoảng 1 triệu km2, Việt Nam được đánh giá là có tiềm năng điện gió, đặc biệt là điện gió ngoài khơi. Theo khảo sát của chương trình đánh giá năng lượng châu Á của Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam là nước có tiềm năng điện gió lớn nhất khu vực Đông Nam Á, lớn gấp 200 lần công suất nhà máy Thủy điện Sơn La. Đáng chú ý là với công nghệ năng lượng tái tạo phát triển vượt bậc, chi phí công nghệ giảm nhanh, giải pháp công nghệ truyền tải và lưu trữ điện có những tiến bộ đang tạo cơ hội để Chính phủ tiếp tục hiện thực hóa mục tiêu chuyển dịch năng lượng theo hướng tăng trưởng xanh. “Chú trọng phát triển năng lượng xanh, sạch và bền vững, đáp ứng cam kết quốc tế về BĐKH được xác định là mục tiêu then chốt và xuyên suốt trong chiến lược phát triển năng lượng quốc gia. Phát triển điện gió, điện gió ngoài khơi và từng bước hình thành ngành công nghiệp nội địa tăng tính tự chủ, giảm được giá thành là định hướng lớn của Chính phủ Việt Nam trong những năm sắp tới.

Để khởi động được một dự án điện gió ngoài khơi, vấn đề cấp bách là nhà phát triển phải có giấy phép khảo sát kinh doanh. Với tính độc quyền, các nhà phát triển sẵn sàng chi hàng chục triệu đô la cần thiết để thúc đẩy phát triển các dự án điện  gió ngoài khơi, do vậy Chính phủ cần đạt được mục tiêu an ninh năng lượng, cam kết Net-Zero và đạt được khả năng dự đoán chi phí.

Nhằm đảm bảo các dự án xây dựng đúng thời hạn, Hội đồng năng lượng gió GWEC đã khuyến nghị những tiêu chí kỹ thuật, tài chính cần thiết và mức độ cam kết, sẵn sàng của các nhà phát triển; phải coi đây là những tiêu chí bắt buộc khi lựa chọn nhà đầu tư để cấp giấy phép khảo sát và khung pháp lý cho ngành điện gió cần được thảo luận chi tiết hơn.

Với lịch trình xây dựng và phát triển trung bình là 6-8 năm cho một dự án, muốn xây dựng dự án điện gió ngoài khơi hiệu quả cần tham vấn và xây dựng khung khổ chính sách và quy định bắt đầu từ hàng chục năm trước. Từng chứng kiến các quốc gia xây dựng ngành công nghiệp điện gió ngoài khơi theo những cách khác nhau, GWEC đã rút ra, điều kiện cần có của mỗi quốc gia là khác nhau và mỗi quốc gia đều cần có một mô hình chính sách riêng phù hợp . Từ những yêu cầy đặt ra, GWEC vui mừng khi thấy Chính phủ Việt Nam đã nhìn thấy tiềm năng của điện gió ngoài khơi để có những cam kết mạnh mẽ cho vấn đề này.

Hoàn thiện cơ chế chính sách và quy định kỹ thuật để phát triển

Ngay sau COP 26, Việt Nam đã trở thành điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư, nhiều tập đoàn năng lượng lớn thế giới mong muốn được nghiên cứu và phát triển điện gió ngoài khơi tại Việt Nam. Đến nay, nhiều nhà phát triển dự án trong và ngoài nước đã gửi hồ sơ đề xuất đo gió và khảo sát địa chất, địa hình trên biển đến các cơ quan quản lý Nhà nước để Việt Nam sớm xem xét, chấp thuận.

dien-gio-2-1679546333.jpg

Nhà máy điện gió số 5 Ninh Thuận với tổng công suất 46,2 MW

Thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, Bộ TN&MT đã chủ động phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương để thẩm định, góp ý về hồ sơ đề xuất. Quá trình xử lý cho thấy, cơ sở pháp lý, đặc biệt là quy định kỹ thuật cần tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện một cách đồng bộ nhằm tạo thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân trong phát triển kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường sinh thái biển đảo.

Bộ Công Thương và Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các cơ quan liên quan tổng hợp báo cáo về những bất cập trong quy định hiện hành để tạo sự thông thoáng cho phát triển năng lượng tái tạo. Hoạt động đo gió, quan trắc, điều tra khảo sát, đánh giá tác động môi trường trên các vùng  biển, phục vụ phát triển điện gió ngoài khơi cho thấy quyết tâm của Chính phủ nhằm đạt được các mục tiêu đến năm 2050 đưa phát thải ròng về “0”.

Theo Cục Quản lý khai thác biển và hải đảo, công nghiệp phát triển điện gió ngoài khơi là lĩnh vực không chỉ mới đối với Việt Nam mà còn mới đối với cả thế giới. Quy định pháp luật về lĩnh vực này chưa theo kịp với thực tế là điều khó tránh. Nghị định 1/2021/NĐ-CP của Chính phủ chưa quy định đầy đủ hồ sơ, tài liệu, trình tự, thủ tục, thời gian giải quyết việc chấp thuận đo đạc, quan trắc, điều tra, khảo sát, đánh giá tài nguyên biển; chưa quy định thời hạn chấp thuận; chưa định rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân phải gửi báo cáo kết quả khảo sát cho các cơ quan quản lý nhà nước. Bên cạnh đó, Bộ Công Thương mới nghiên cứu, bổ sung các tiêu chuẩn kỹ thuật phục vụ khảo sát điện gió ngoài khơi, còn nhiều đề xuất khảo sát trên cùng một vùng biển hoặc các đề xuất còn có sự giao thoa, chồng lấn trong xác định diện tích khảo sát điện gió ngoài khơi.

Ở đa số nước phát triển, Chính phủ đã bố trí nguồn lực thực hiện khảo sát, song vẫn đấu thầu để nhà phát triển dự án tổ chức nghiên cứu, khảo sát; Mặt khác, để có cơ sở tổ chức khảo sát điện gió ngoài khơi một cách hiệu quả và bài bản, cần có căn cứ như quy hoạch không gian biển, phân vùng cho phát triển điện gió, đặc biệt là điện gió ngoài khơi; đồng thời cũng  cần có các quy định cụ thể để hạn chế tình trạng trong cùng một khu vực biển có nhiều tổ chức cùng thực hiện khảo sát, cũng như không tạo sự giao thoa, chồng lấn trong quá trình khảo sát

Hội đồng Năng lượng gió toàn cầu và đại diện của nhiều tập đoàn năng lượng lớn cho biết, còn có quan điểm khác nhau, vẫn coi đây là vấn đề mới, khó và phụ thuộc vào nhiều yếu tố.  Giao thoa, chồng lấn ở nhiều quốc gia có biển chỉ cho phép một nhà đầu tư thực hiện khảo sát nhằm bảo đảm cam kết dài hạn, nghiêm túc từ phía đầu tư; cần hạn chế rủi ro cho nhà phát triển điện gió khi quyết định đầu tư khảo sát, tránh xung đột lợi ích trong quá trình thực hiện dự án. Bên cạnh đó cũng cần đầu tư nghiên cứu cụ thể đối với mỗi khu vực để xác định diện tích biển cần thiết ứng với quy mô công suất dự kiến.

Ở Việt Nam. nhu cầu của các nhà đầu tư phát triển điện gió ngoài khơi rất lớn (đến 100GW), vượt xa so với công suất quy hoạch dự kiến (7GW), do  vậy, cần có tiêu chí cụ thể để lựa chọn nhà đầu tư có kinh nghiệm, năng lực và tiềm lực tài chính. Nhà đầu tư cần có cam kết rõ ràng về tiến độ và lộ trình phát triển dự án. Giám đốc Quỹ chuyển dịch năng lượng Đông Nam Á, Sirpa Jarvenpaa nhận xét, Việt Nam có tiềm năng phát triển điện gió ngoài khơi, các nhà đầu tư sẵn sàng tham gia cùng thúc đẩy quá trình phát triển loại hình năng lượng tái tạo này. Việc các tổ chức quốc tế đã, đang và sẽ tiếp tục đồng hành cùng các cơ quan quản lý nhà nước để Việt Nam tiếp cận, chia sẻ, học tập kinh nghiệm quốc tế thúc đẩy phát triển điện gió ngoài khơi là rất cần thiết, Quỹ chuyển dịch năng lượng Đông Nam Á sẵn sàng đồng hành và hợp tác.

Trên tinh thần này, Tổng cục Biển và hải đảo Việt Nam đã cùng các cơ quan liên quan của Bộ Công Thương, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Nông nghiệp &Phát triển Nông thôn và các Bộ, ngành, địa phương liên quan đã nghiên cứu những ý kiến góp ý để hoàn thiện quy định pháp lý và kỹ thuật phát triển điện gió, nhằm báo cáo để các cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định. Theo đó, các đề xuất đều mong muốn các nhà phát triển dự án tiếp tục phối hợp chặt chẽ, chia sẻ, cập nhật thông tin, đồng hành cùng các cơ quan quản lý từ trung ương đến địa phương để tháo gỡ các khó khăn vướng mắc nhăm sớm hình thành những trang trại điện gió, góp phần thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.

Tháo gỡ rào cản để phát triển

Năng lượng gió và năng lượng gió ngoài khơi nói riêng được xem là một trong những giải pháp quan trọng để giảm ảnh hưởng tiêu cực của BĐKH toàn cầu. Việc đẩy mạnh phát triển điện gió là một giải pháp cần thiết để bảo đảm an ninh năng lượng, góp phần thực hiện các cam kết của Việt Nam về cắt giảm khí nhà kính, hướng đến mục tiêu đưa phát thải ròng về 0.

Ưu điểm chính của năng lượng gió ngoài khơi là khả năng tạo điện cao nhờ tốc độ gió trên đại dương ổn định và mạnh hơn so với ở đất liền. Mặt khác, có thể lắp đặt trang trại gió ngoài khơi trên vùng biển rộng mà ít hoặc không ảnh hưởng trực tiếp đến các khu dân cư. Là cơ hội tốt để Chính phủ Việt Nam tiếp tục xây dựng chính sách, kế hoạch hiện thực hóa mục tiêu chuyển dịch năng lượng theo hướng tăng trưởng xanh. Chú trọng phát triển năng lượng sạch và bền vững, đáp ứng cam kết quốc tế về BĐKH, được coi là mục tiêu then chốt và xuyên suốt trong chiến lược phát triển năng lượng quốc gia Việt Nam.

Thúc đẩy quá trình chuyển đổi năng lượng xanh, đòi hỏi Việt Nam phải cân nhắc cả về nguồn lực kỹ thuật và tài chính. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các dự án điện gió ngoài khơi, vốn mất rất nhiều thời gian và cần những khoản đầu tư lớn để thiết kế, xây dựng. Để bảo đảm tính khả thi cho các dự án điện gió, các doanh nghiệp trong và ngoài nước đều cần một khung thể chế rõ ràng, ổn định; đồng thời đề xuất cần thành lập một Ủy ban điều phối liên bộ, do Bộ Công Thương chủ trì để đẩy nhanh việc giải quyết các vướng mắc trong phát triển điện gió.

Chia sẻ về thách thức trong phát triển điện gió ngoài khơi giới nghiên cứu và quản lý cho rằng, nguồn điện gió ngoài khơi trong giai đoạn đến năm 2030 vẫn là nguồn điện có chi phí đầu tư xây dựng cao. Bên cạnh đó, phát triển điện gió ngoài khơi đòi hỏi cao về hạ tầng đồng bộ, tăng cường khả năng vận hành của hệ thống và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Với tính phức hợp của dự án điện gió ngoài khơi bao gồm cả công trình trong bờ và trên biển, cần thiết phải hoàn thiện các văn bản luật và dưới luật, hoàn chỉnh các quy định về khảo sát dự án, giao khu vực biển, đánh giá tác động môi trường. Do tính chất phức tạp về kỹ thuật và công nghệ, quy trình và thủ tục đầu tư; quy mô đầu tư lớn. cần phải có một lộ trình rõ ràng với những bước đi rất cụ thể của từng bộ, ngành hay các bên liên quan để hiện thực hóa các cam kết cũng như các chiến lược và định hướng, mục tiêu cụ thể về phát triển năng lượng tái tạo ở Việt Nam.

Nhiều ý kiến cho rằng, để thu hút đầu tư, đặc biệt là đầu tư từ khu vực tư nhân vàò lĩnh vực này, cần hoàn thiện khung pháp lý và thể chế để bảo đảm các nguồn vốn đầu tư có đầy đủ cơ sở, căn cứ để các bộ, ngành liên quan khẩn trương rà soát cũng như phê duyệt để triển khai kịp tiến độ  đặc biệt là cho giai đoạn từ nay đến năm 2030.

Một trong những khuyến nghị chính của Báo cáo “Lộ trình Phát triển Điện Gió Ngoài Khơi tại Việt Nam” của Cục Năng lượng Đan Mạch và Ngân hàng Thế giới là Chính phủ Việt Nam nên cho phép triển khai một vài dự án thí điểm trên quy mô lớn theo giai đoạn để kích hoạt ngành công nghiệp này. Hiện tại là thời điểm chín muồi để chính phủ có các hành động mạnh mẽ nếu muốn đạt được mục tiêu phát triển 7GW điện gió ngoài khơi vào năm 2030 như trong Dự thảo Quy hoạch Điện VIII.

Đồng Giám đốc Điều hành của tập đoàn Copenhagen Offshore Partners (COP), Henrik Scheinemann, đã bổ sung: “Điều quan trọng là Việt Nam nên tập trung vào việc khởi động ngành năng lượng tái tạo, một ngành công nghiệp đã được chứng minh là có hiệu quả cao, đồng thời học hỏi kinh nghiệm từ các thị trường đã phát triển để chọn cho mình một mô hình điện gió ngoài khơi phù hợp với nhu cầu và kỹ năng của đất nước. Có thể thấy, Việt Nam có khả năng và sẽ thành lập ngành công nghiệp điện gió. Giờ là lúc thúc đẩy và cho phép thực hiện các dự án thí điểm và ban hành khung pháp lý cũng như tạo điều kiện để nhà đầu tư và phát triển dự án chia sẻ bài học nhằm xây dựng chuỗi cung ứng địa phương và giải quyết cơn khát năng lượng xanh ngày càng tăng của Việt Nam. Tập đoàn CIP cũng cam kết hỗ trợ Việt Nam trên hành trình lâu dài để phát triển ngành công nghiệp này./.

TS. Lê Thành Ý

Link nội dung: https://nongthonvaphattrien.vn/dien-gio-va-dien-gio-ngoai-khoi-tiem-nang-va-loi-the-de-tang-truong-xanh-a4002.html