Làng thông minh, phương thức chuyển đổi số và ứng dụng khoa học công nghệ trong xây dựng nông thôn mới

11/11/2022 16:01

Làng thông minh đã được nhiều quốc gia trên thế giới nghiên cứu, ứng dụng thí điểm và đưa ra tổng kết về mặt lý luận, kinh nghiệm thực tiễn gắn với bối cảnh cụ thể của từng địa phương và các định hướng mục tiêu của từng quốc gia. Việc xây dựng mô hình Làng thông minh nhằm hướng tới mục tiêu chung là xây dựng nông thôn hiện đại, nông dân văn minh và nâng cao đời sống người dân khu vực nông thôn gắn với phát triển sinh kế và bảo vệ môi trường sinh thái dựa vào chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo và ứng dụng khoa học công nghệ.

KHÁI QUÁT VỀ LÀNG THÔNG MINH

Tại Việt Nam, chương trình MTQG về NTM đã mang lại nhiều tác động tích cực tới đời sống người dân khu vực nông thôn. Phát huy thành quả đó, trong giai đoạn mới, Chính phủ đã ban hành Quyết định 318/QĐ-TTg về Bộ tiêu chí quốc gia về xã NTM và Bộ tiêu chí quốc gia về xã NTM nâng cao giai đoạn 2021 – 2025. Trong đó đã đưa những định hướng điều chỉnh, nâng cấp bộ tiêu chí Chương trình MTQG NTM phù hợp đặc thù của vùng miền, nâng cao các chỉ tiêu, chỉ số kinh tế, xã hội khu vực nông thôn, đặc biệt là đưa ra một số tiêu chí về ứng dụng các giải pháp công nghệ số gắn với chương trình chuyển đổi số quốc gia. Bên cạnh đó, trong tiêu chí xã NTM kiểu mẫu, có đặt ra yêu cầu mỗi xã NTM kiểu mẫu phải có ít nhất một mô hình thôn thông minh (Làng thông minh). Vậy nên, tiếp cận Làng thông minh là một trong những phương thức mới đối với bối cảnh phát triển Nông thôn mới tại Việt Nam trong thời kỳ 4.0.

 

Hiện nay chúng ta đang nói nhiều về thành phố thông minh (smart city), là mô hình thành phố áp dụng các công nghệ mới để nâng cao chất lượng cuộc sống người dân, hiệu quả điều hành chính quyền thành phố. Nhưng suy cho cùng đối tượng phục vụ trung tâm của các hệ thống thông minh này là con người, cho nên người dân hay là chính quyền ở khu vực nông thôn cũng có những nhu cầu về dịch vụ thông minh, chỉ khác nhau ở mức độ về nhu cầu, quy mô, hình thức và tính cấp bách mà thôi.

 

Làng/xã thông minh (Smart Village) hay nói rộng hơn là cộng đồng thông minh, là mô hình thúc đẩy sáng tạo tại cồng đồng địa phương trong đó có ứng dụng các công nghệ cao, công nghệ số, công nghệ sinh học, năng lượng tái tạo…và có xử lý dữ liệu nhằm hướng đến: Nông nghiệp thông minh (quản lý sản xuất, truy xuất nguồn gốc, thương mại), du lịch nông thôn thông minh (đặt tour, homestay, du lịch trải nghiệm, ẩm thực, thanh toán không tiền mặt… thông qua internet), môi trường thông minh (được quan trắc, giám sát và báo cáo hàng ngày), y tế thông minh (sức khoẻ người dân và du khách luôn được đảm bảo), chính quyền thông minh (cấp xã ứng dụng được dịch vụ công trực tuyến cấp độ 3, 4 nhằm phục vụ người dân được nhanh, tốt hơn…) và chắc chắn Làng/xã thông minh cần một thiết chế được số hoá có khả năng quản lý và vận hành các đối tượng trong đó để đảm bảo được sự phát triển của mình bằng các giá trị truyền thống kết hợp với công nghệ tại khu vực nông thôn để thu hẹp khoảng cách với đô thị và kết nối với đô thị.

xxa1-1668156901.png
  1. Kinh nghiệm từ quốc tế

Khái niệm về Làng/xã thông minh đề cập đến các khu vực nông thôn và những cộng đồng ở đó nó được xây dựng dựa trên thế mạnh và tài sản hiện có của họ cũng như việc phát triển các cơ hội mới. Trong Làng/xã thông minh, các giá trị truyền thống và dịch vụ mới được tăng cường bằng các phương tiện kỹ thuật số, công nghệ viễn thông, áp dụng ý tưởng đổi mới sáng tạo và sử dụng tri thức tốt hơn để mang lại lợi ích của người dân, cộng đồng và doanh nghiệp. Việc áp dụng công nghệ kỹ thuật số, các ý tưởng đổi mới sáng tạo góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, cải thiện dịch vụ công, sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên, đảm bảo an ninh xã hội, giảm thiểu tác động xấu đến môi trường và đặc biệt là tạo ra nhiều cơ hội mới cho việc phát triển sản phẩm thế mạnh của địa phương (cả nông nghiệp và phi nông nghiệp) theo chuỗi giá trị. Khái niệm Làng/xã thông minh không đề xuất giải pháp phù hợp cho tất cả các làng/xã trên cả nước, thực tế áp dụng cần phù hợp về mặt phạm vi địa lý, kinh tế, văn hóa xã hội, nhu cầu và đặc thù của từng vùng tương ứng.

Các ứng dụng công nghệ được coi là kiến trúc thượng tầng, rất quan trọng cũng như là việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng, phát triển kinh doanh, vốn nhân lực, năng lực và xây dựng cộng đồng. Việc quản trị tốt của cả hệ thống chính trị và sự tham gia của công dân chính là chìa khóa làm nên sự thành công cho mô hình Làng thông minh. Đặc biệt, mô hình này sẽ giúp các thế hệ tương lai được sinh ra và lớn lên ở Làng/xã thông minh được sớm tiếp cận với các kỹ năng vận dụng công nghệ hữu ích vào đời sống: Đọc viết điện tử, tương tác điện tử, y tế điện tử, các dịch vụ cơ bản thông minh, các giải pháp đổi mới sáng tạo cho các vấn đề môi trường, ứng dụng kinh tế tuần hoàn (mô hình kinh tế tái tạo, giảm thiểu chất thải), quảng bá các sản phẩm địa phương bằng giải pháp công nghệ,… qua đó gia tăng kinh tế địa phương, đảm bảo an ninh, bảo vệ môi trường, phát triển du lịch và các hoạt động văn hóa xã hội khác. Trên hết điều này giúp tăng năng suất lao động, tăng tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế nông thôn trong cơ cấu kinh tế cả nước, giúp cho “khoảng cách” giữa nông thôn và thành thị được thu hẹp.

 

Nhìn rộng ra trên thế giới, từ năm 2016 Uỷ ban châu Âu đã phối hợp với Nghị viện châu Âu đưa ra chính sách xây dựng thí điểm Làng thông minh giai đoạn 2016-2020 với tên gọi là “Châu Âu hành động vì Làng thông minh” tại một số nước, lấy nền tảng là công nghệ kết nối với giá trị bản địa nhằm bảo tồn và phát triển các giá trị châu Âu và giúp cho người dân nông thôn có việc làm, cuộc sống thịnh vượng. Điều đó cho thấy nếu chúng ta bắt đầu xây dựng Làng thông minh theo “phong cách Việt Nam” từ bây giờ thì khoảng cách với thế giới sẽ dần được thu hẹp, đời sống người dân vùng nông thôn sẽ được nâng cao.

 

Dự án “Smart Basilicata” của Ý (Saliva, 2016; Progetto SMART Basilicata, 2018), được tài trợ bởi Quỹ liên kết của chính quyền khu vực Basilicata. Khu vực Basilicata đã phải vật lộn với sự suy giảm GDP và một trong những khu vực có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất ở miền Nam nước Ý. Trong năm 2015, một phần lớn các doanh nghiệp khu vực làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp (32%, nhiều hơn mức trung bình quốc gia). Phần lớn khu vực (92%) là đất nông nghiệp hoặc rừng (EC, 24). Bên cạnh đó, Basilicata cũng là một trong hai khu vực dân cư thưa thớt nhất, với 56,6 người / km2 (UrbiStat, 2020), đây cũng là hệ quả của khu vực lãnh thổ miền núi và đồi núi. Mục đích chính của dự án là làm cho khu vực phát triển bền vững và vững chắc hơn, và được thực hiện dựa trên các hiểu biết tại địa phương và khu vực. Dự án Smart Basilicata đã xác định những khó khăn chính, tìm kiếm các giải pháp thực tế khả dĩ và các phương cách để đưa chúng vào thực tế. Điều này đã được thực hiện thông qua năm trụ cột của Basilicata như một khu vực thông minh: tài nguyên thiên nhiên, năng lượng, di động, văn hóa và du lịch, sự tham gia thông minh (Progetto SMART Basilicata, 2018). Thời gian thực hiện dự án là 54 tháng (2012 2015) và đã có một số đóng góp hữu hình để tăng cường phát triển thông minh khu vực. Một trong những điều dễ tiếp cận nhất là sự phát triển của một công cụ cải tiến nhằm tăng cường sự tham gia tích cực của công dân vào việc ra quyết định và khuyến khích sự tham gia của công chúng thông qua việc sử dụng các công nghệ ICT được phát triển bằng cách sử dụng phương pháp SUN4Matera (Pietrapertosa et al, 2015).

 

Một ví dụ khác cung cấp cái nhìn sâu sắc về cách triển khai khái niệm LTM là “Dự án Làng kỹ thuật số” (Digitale Dörfer) của Đức, thực hiện từ năm 2015 đến 2019. Dự án được tài trợ bởi Bộ Nội vụ và Thể thao vùng Rhineland-Palatinate với tổng ngân sách khoảng 4,5 triệu euro (Digitale Dörfer, 2018; Digital Villages Germany, 2020). Phần lớn người dân ở Đức sống ở khu vực nông thôn (63,3%) (Hess et al, 2020), do đó áp dụng chiến lược thông minh cho phát triển nông thôn phù hợp với mục tiêu phát triển chung của đất nước. Khu vực này là khu vực giàu có thứ sáu của Đức và nền kinh tế của nó chủ yếu dựa vào lĩnh vực hóa chất và dược phẩm, chế tạo phương tiện, cơ khí và thực phẩm. Khu vực này cũng được kết nối rất tốt và vùng phủ sóng băng thông rộng của nó thậm chí còn cao hơn mức trung bình của đất nước (EC, 30).

 

Đi đầu trong chương trình là sự chuyển đổi kỹ thuật số của ba cộng đồng được lựa chọn: Eisenberg, Gollheim và Beztdorf-Gabhardshain (tổng cộng lại là 33 thành phố). Mục tiêu chính của dự án là khuyến khích sự đổi mới, hợp tác (cư dân - chính quyền địa phương - ngành công nghiệp địa phương) và các giải pháp liên ngành, bền vững và giá cả phải chăng. Thông qua việc sử dụng phương pháp tiếp cận phòng thí nghiệm sống, các khu vực mục tiêu đã được chọn và theo đó một số giải pháp đã được đề xuất: thị trường trực tuyến địa phương, cổng thông tin địa phương và nền tảng kỹ thuật số. BestellBar là một thị trường trực tuyến bao gồm hơn ba mươi nhà cung cấp địa phương và 700 cư dân đăng ký chỉ trong ba tháng ra mắt. Thành công tương tự đã được chia sẻ bởi một cổng thông tin địa phương trực tuyến nơi có tới 400 người dùng được ghi nhận mỗi tuần (Digital Villages Germany, 2020). Quá trình của dự án được coi là thành công và một số tín hiệu cho các dự án tương tự cần chú ý: thật sự quan trọng khi có người liên hệ địa phương; là cần thiết để có được lòng tin của dân làng; nhận ra nhu cầu của người dân là điểm khởi đầu; sự tham gia thường trực là rất quan trọng; các hình mẫu thử nghiệm là quan trọng (Hess et al, 2020).

Một sáng kiến rất rộng lớn khác về chuyển đổi số thông minh được kết nối với một trong những khu vực Bắc Cực, Lapland, và đã được thực hiện trong khuôn khổ Quỹ Phát triển Nông thôn Châu Âu (ERD) từ năm 2014. Theo Dự án Thông minh Bắc cực (Artic Smartness Project), dự án của Hội đồng khu vực Lapland, ở đó là năm cụm đặc biệt hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau nhưng liên kết với nhau: Công nghiệp Bắc cực và Kinh tế Liên thông, Môi trường phát triển Bắc cực, Thiết kế Bắc cực, An toàn Bắc cực và Cụm cộng đồng nông thôn thông minh Bắc cực (Cụm Nông thôn) đặc biệt là phần sau (Arctic, 31; Arctic, 32). Trong Dự án “Artic Smartness”, các cơ hội kinh tế và kinh doanh của khu vực đang được cải thiện, do đó nâng cao khả năng cạnh tranh kinh tế của Lapland.

Một trong những lĩnh vực chính được giải quyết thông qua Cụm Nông thôn được kết nối với sự bền vững của năng lượng tái tạo và tài nguyên thiên nhiên và sản xuất thực phẩm địa phương. Chính quyền địa phương, doanh nhân, nhà phát triển, nhà nghiên cứu, giáo dục và một số tổ chức khác được kết nối trong mạng và được điều phối bởi cụm để cho phép phát triển thông minh và bền vững của khu vực. Lapland là khu vực phía bắc EU nhất, dân cư thưa thớt (với 1,8 dân / km2) và hầu hết được bao phủ bởi các khu vực rừng (98%), tiếp nhận các tài trợ của EU (đặc biệt là các quỹ ERD và EARD) và bắt đầu phát triển mạnh mẽ (liên quốc gia) và (liên) vùng, thu hút các tổ chức và doanh nhân mới. Cụm Nông thôn cũng đã được trao Nhãn Bạc trong phân tích cụm. Cho đến nay, đây đã phát triển thành một mạng lưới bao gồm khoảng 100 doanh nhân và khoảng 200 tổ chức khác (như thành phố, tài chính, chính trị gia, cố vấn, v.v…). Đặc biệt, những thực hành tốt là vòng giá trị thực phẩm REKO, một kênh bán hàng điện tử được sử dụng bởi các nhà sản xuất thực phẩm địa phương để bán thực phẩm trực tiếp cho người dùng; đến nay, 100 nhà sản xuất đã được đưa vào REKO (Arctic, 32). Trong khi các ngành kinh tế có lợi nhuận cao nhất là khai thác, du lịch (dựa vào tự nhiên) và ngành công nghiệp kim loại và lâm nghiệp, Chương trình Lương thực của Cụm Nông thôn tăng khả năng tự cung cấp lương thực trong khu vực.

Các định hướng phát triển LTM của Liên minh Châu Âu qua Mạng lưới Phát trin nông thôn Châu Âu (ENRD), đề cập đến sự tham gia của cộng đồng địa phương và việc sử dụng các công cụ kỹ thuật số được coi là yếu tố cốt lõi, tập trung vào một số tính năng chính: (1) Một chiến lược LTM xác định những thách thức, nhu cầu, tài sản và cơ hội; (2) Hợp tác, liên kết đối tác và sự hỗ trợ của chính quyền địa phương; (3) LTM tìm kiếm các giải pháp bắt nguồn từ lãnh thổ địa phương có thể tạo ra giá trị và lợi ích cho cộng đồng; (4) Đổi mới xã hội và kỹ thuật số là đặc trưng của LTM (bao gồm băng thông rộng, đào tạo và trao quyền cho cộng đồng nông thôn). Mô hình LTM của EU gắn kết với chuyển đổi số nông thôn được ENRD nghiên cứu và triển khai thực tế với các tiêu chí về các chỉ số xác định mức độ chuyển đổi số của vùng nông thôn có ứng dụng mô hình LTM của EU (ENRD, 2018). 

ENRD đề xuất 5 cấp độ trưởng thành trong chuyển đổi số của các làng ở vùng nông thôn: (1) Excluded (Chưa đáp ứng) (Nghèo, không mạng di động, không mạng băng thông rộng; Kỹ năng thấp/không có; Dich vụ công thấp/không có; Không chia sẻ); (2) Connected (Kết nối) (Mạng băng thông rộng cơ bản; Xây dựng năng lực cơ bản; Có mức độ về trình độ số thấp/bắt đầu; Gắn kết các bên liên quan cùng xác định hoạt động ưu tiên); (3) Engaged (Tham gia) (Kỹ năng số cao, dịch vụ số ứng dụng rộng rãi; Có các dịch vụ giáo dục, đào tạo, dịch vục công và kinh doanh; Có các bên liên quan trong thiết kế dịch vụ, và triển khai); (4) Experienced (Kinh nghiệm) (Mạng cáp quang; Năng lực phát triển sáng tạo số; Phối hợp trong chuyển đổi số quốc gia; Có các dịch vụ như vùng đô thị); (5) Player (Làm chủ) (Đầy đủ năng lực kỹ thuật, kinh tế, và xã hội để tạo ra sự sáng tạo và đóng góp vào kinh tế và xã hội số và bền vững; Làng sở hữu dữ liệu và chia sẻ để tạo ra giá trị gia tăng; Là đối tác trong phát triển sản phẩm mới và dịch vụ mới).

  1. LÀNG THÔNG MINH THÍ ĐIỂM TẠI VIỆT NAM

3.1. Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030

 “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 đề ra mục tiêu kép là vừa phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, vừa hình thành các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam có năng lực đi ra toàn cầu, với một số chỉ số cơ bản. Các mục tiêu chính đến năm 2025: (1) Phát triển Chính phủ số, nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động; (2) Phát triển kinh tế số, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; (3) Phát triển xã hội số, thu hẹp khoảng cách số. Mục tiêu đến năm 2030, dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 được cung cấp 100% trên nhiều phương tiện truy cập khác nhau.

100% hồ sơ công việc tại cấp bộ, tỉnh; 90% hồ sơ công việc tại cấp huyện và 70% hồ sơ công việc tại cấp xã sẽ được xử lý trên môi trường mạng (trừ hồ sơ công việc thuộc phạm vi bí mật nhà nước); hình thành nền tảng dữ liệu cho các ngành kinh tế trọng điểm dựa trên dữ liệu của các cơ quan nhà nước và hạ tầng kết nối mạng Internet vạn vật (IoT), kết nối, chia sẻ rộng khắp giữa các cơ quan nhà nước, giảm 30% thủ tục hành chính; mở dữ liệu cho các tổ chức, doanh nghiệp, tăng 30% dịch vụ sáng tạo dựa trên dữ liệu phục vụ người dân, doanh nghiệp; 70% hoạt động kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước được thực hiện thông qua môi trường số và hệ thống thông tin của cơ quan quản lý.

3.2 Kiến trúc, tiêu chí Làng thông minh, điểm tựa cho việc thiết kế đa dạng mô hình ứng dụng công nghệ số, khoa học & công nghệ trong phát triển nông thôn

Ngày 8/3/2022, Chính phủ thông qua Quyết định 318/QĐ-TTg ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã NTM và Bộ tiêu chí quốc gia về xã NTM nâng cao giai đoạn 2021 - 2025. Trong đó, có một số tiêu chí, chỉ số liên quan đến chuyển đổi số như: Tiêu chí số 8. Thông tin và truyền thông (xã có dịch vụ viễn thông, internet; có ứng dụng CNTT trong công tác quản lý, điều hành); Tiêu chí số 13. Tổ chức sản xuất và phát triển kinh tế nông thôn (Thực hiện truy xuất nguồn gốc các sản phẩm chủ lực của xã gắn với xây dựng vùng nguyên liệu và được chứng nhận VietGAP hoặc tương đương); Tiêu chí số 15. Y tế (Tỷ lệ dân số có sổ khám chữa bệnh điện tử).

xxa3-1668156888.png

Thiết kế kiến trúc Làng/xã thông mình của HTX Nông nghiệp Số

Từ những nghiên cứu quốc tế, thực tiễn phát triển NTM và nội lực, năng lực của công nghệ số, khoa học & công nghệ mà Việt Nam sẵn sàng. Nhóm nghiên cứu đã xây dựng bộ tiêu chí tham khảo cho chương trình xây dựng NTM giai đoạn 2021-2025, nhằm tạo ra môi trường để các vùng nông thôn có cách tiếp cận riêng trong việc đưa công nghệ số, khoa học công nghệ vào thực tiễn làng/xã của mình:

Nhóm tiêu chí

Tiêu chí

Diễn giải tiêu chí

1. Hạ tầng số

(Digital Infrastructure)

1.1. Kết nối băng thông rộng

  • Có đường kết nối băng thông rộng từ Tỉnh đến Huyện, Xã
  • Các dạng: FTTH, ADSL, Leased Line

1.2. Có hệ thống mạng WAN/LAN

  • Có hệ thống mạng nội bộ trong Huyện, Xã
  • Các mạng đồng trục, mạng fiber, RJ45
  • Hệ thống mạng đến thôn / làng
  • Hệ thống mạng WIFI công cộng

1.3. Có hệ thống mạng không dây phục vụ Nông nghiệp

  • 3G/4G/5G
  • LPWAN
  • WIFI

2. Các dịch vụ Nông thôn số

(Digital Rural Services)

2.1. Cải cách hành chính

  • Hệ thống HC công cấp xã – Cấp ¾
  • Hệ thống thông tin hành chính đển người dân

2.2. Phát triển Trung tâm thông tin làng

  • Hệ thống dashboard thông tin điều hành, kết nối Xã với các thôn, làng
  • Có hệ thống ứng dụng mobile, hoặc trạm POS để người dân truy xuất thông tin

2.3. Phát triển kinh tế số nông nghiệp và nông thôn

  • Mô hình kinh tế HTX có công cụ quản lý số
  • Có các dịch vụ nông nghệp và thiết yếu như điện, nước, môi trường
  • Hỗ trợ quản lý thu ngân sách thôn / làng

2.4. Phát triển nông nghiệp công nghệ cao

  • Có sử dụng công nghệ ICT trong sản xuất nông nghiệp
  • Hệ thống quan trắc môi trường sản xuất NN, thuỷ sản

2.5. Phát triển công nghệ số trong quản lý chất lượng NLTS

  • Hệ thống quản lý chỉ dẫn địa lý
  • Hệ thống quản lý truy xuất nguồn gốc
  • Hệ thống quản lý chất lượng NLTS

2.6. Quản lý nông thông thông minh

  • An ninh thôn xóm
  • Trương tác chính quyền người dân

2.7. Phát triển dịch vụ nông thông

Các dịch vụ nông thôn sử dụng công nghệ số trong phát triển Xã hội, Du lịch gắn với Văn hóa bản địa

2.8. Y tế nông thôn

Có ứng dụng các hệ thống công nghệ số trong chăm sóc sức khoẻ người dân

2.9. Giáo dục nông thôn

Có ứng dụng các hệ thống công ghệ số trong hỗ trợ phát triển giáo dục cho vùng nông thôn

2.10. Thanh niên và việc làm

Vấn đề đào tạo kỹ năng mới (số) cho thanh niên, và tạo ra việc làm mới cho vùng nông thôn

3. Sáng tạo địa phương

(Local Innovation)

3.1. Kinh tế nông nghiệp, Kinh tế số

  • HTX ứng dụng công nghệ số
  • Hình thức kinh tế mới gắn với phát triển bền vững, ứng dụng công nghệ số
  • Nền kinh tế tuần hoàn
  • Thanh toán thông minh
  • Sàn giao dịch NLTS

3.2. Nông nghiệp, Thực phẩm

  • Chương trình OCOP
  • Phát triển chuỗi giá trị NLTS
  • Phát triển hệ thống thực phẩm
  • Nông nghiệp CNC

3.3. Quản lý xã hội nông thôn

  • Tổ chức xã hội nông thông / làng
  • Hình thức quản trị nông thôn cấp làng (dưới Xã)

3.4. Các sáng tạo số

  • Có các ứng dụng công nghệ số, ICT vào các hoạt dộng khác của làng, hay cộng đồng

4. Tính bền vững

(Sustainbality)

4.1. Năng lượng

  • Tái tạo
  • Chiếu sáng thông minh

4.2. Nước

  • Sử dụng hiệu quả nguồn nước
  • Bảo vệ nguồn nước

4.3. Môi trường

  • Rác thải nông nghiệp
  • Rác thải sinh hoạt
  • Thu gom và xử lý rác

4.4. Đi lại / Giao thông

Di chuyển và đi lại trong Làng

4.5. Ứng phó BĐKH

  • Các biện pháp để cải thiện mức độ ứng phó với biển đổi khí hậu, quản lý thảm hoạ: lụt, bão, sạt lở…

5. Kết nối Nông thôn – Thành thị

(Urban – Rural linkage)

5.1. Hạ tầng cứng

  • Hệ thống mạng băng thông rộng kết nối Xã / Huyện đến Tỉnh và quốc gia.

5.2. Hạ tầng mềm

  • Kết nỗi quản lý CCHC (LGSP/NGSP)
  • Quản lý cấp thôn / làng

5.3. Kết nối xã hội

  • Kết nối Làng – Làng, Thôn – Thôn (và Xã – Xã)
  • Hình thành các nhóm công tác viên chuyên đề trong LTM

6. Phát triển

(Development)

6.1. Các hoạt động khuyến học, khuyến NLN dựa trên công nghệ số

  • Các hoạt động hỗ trợ các nhóm trong làng, thôn tiếp cận với phát triển công nghệ trong SXNLTS

6.2. Hình thành mạng lưới các Làng thông minh

  • Chia sẻ kinh nghiệm xuyên làng
  • Diễn đàn trao đổi kinh nghiệm

 

3.3. Mô hình thí điểm tại Thừa Thiên Huế dưới tiếp cận Làng thông minh

 hình Làng/xã thông minh tại xã Phong Hòa (huyện Phong Điền), xã Quảng Thọ (huyện Quảng Điền) tỉnh Thừa Thiên Huế do HTX Nông nghiệp Số triển khai từ tháng 10/2020 đến nay trong khuôn khổ đề tài “Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn xây dựng làng thông minh, xã kết nối góp phần hiện đại hóa nông thôn”. HTX Nông nghiệp Số đã bàn giao và ứng dụng 04 phần mềm và giúp người dân, chính quyền tự chủ động đặt ra các bài toán phải áp dụng khoa học công nghệ mới. So sánh tác động của Làng thông minh (tập trung vào chuyển đổi số và sáng tạo từ nhu cầu của địa phương) đối với các tiêu chí xây dựng NTM được đưa ra như sau:

 

TT

Giải pháp

Lĩnh vực tác động

Nội dung ứng dụng

Tác động tới tiêu chí LTM - XKN

1

Phần mềm trung tâm điều hành LTM

Quản lý chính quyền

Giám sát chỉ số kinh tế xã hội, kết nối và truyền tải thông tin từ chính quyền đến người dân.

- Tiêu chí 3, nội dung 3.3

- Tiêu chí 4, nội dung 4.1, 4.2.

- Tiêu chí 18, nội dung 18.1.

2

Phần mềm hỗ trợ điều hành và quản lý sản xuất nông nghiệp

Nông nghiệp

Quản lý dữ liệu nông nghiệp, quản lý lịch thời vụ, quản lý quy trình sản xuất và truy xuất nguồn gốc

- Tiêu chí số 5, nội dung 5.1.

- Tiêu chí số 12, nội dung 12.1.

3

Phần mềm tương tác chính quyền người dân

Quản lý chính quyền

Phản ánh hiện trường, lấy ý kiến góp ý/mức độ hài lòng người dân

- Tiêu chí số 3, nội dung 3.2.

- Tiêu chí số 6, nội dung 6.2.

- Tiêu chí số 19, nội dung 19.1.

4

Hệ thống quản lý an ninh thôn xóm bằng công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI)

An ninh

Quản lý camera an ninh, phát hiện phương tiện vi phạm và cảnh báo, quản lý dữ liệu an ninh.

- Tiêu chí số 6, nội dung 6.1.

- Tiêu chí số 12, nội dung 12.1.

Kết quả đánh giá hiện trạng so với Bộ tiêu chí LTM tại Phong Hoà sau khi triển khai mô hình cho thấy mức độ gia tăng về tỷ lệ đạt bộ tiêu chí được thể hiện như hình bên dưới.

Sau khi triển khai mô hình, số lượng tiêu chí đạt của xã Phong Hòa tăng từ 12 lên 23 tiêu chí. Xét theo tính chất tuyệt đối, để đạt được toàn bộ 36 tiêu chí thì cần có quá trình tiếp cận, ứng dụng và tham gia của chính quyền, người dân và chương trình NTM trong thời gian đủ dài, đầu tư thêm cơ sở vật chất, hạ tầng, chương trình hành động của địa phương và giải pháp công nghệ để tiếp tục hoàn thiện thêm mô hình. Mỗi địa phương có thể đưa ra định hướng lựa chọn, áp dụng giải pháp phù hợp với đặc thù, thế mạnh và dư địa phát triển của mình để đạt được các tiêu chí đề ra.

xxa2-1668156894.png

Đánh giá kết quả trước và sau ứng dụng mô hình LTM - XKN tại xã Phong Hòa

 

  1. KẾT LUẬN

Thực tiễn định hướng phát triển chương trình NTM giai đoạn 2021 – 2025 tại Việt Nam đã đặt ra một số yêu cầu về chuyển đổi số trong NTM đáp ứng chiến lược chuyển đổi số quốc gia thông qua hoạt động ứng dụng CNTT, đầu tư hạ tầng số và các giải pháp thông minh trong quản lý điều hành, triển khai dịch vụ nông thôn. Điển hình là xây dựng “thôn thông minh” là chỉ tiêu bắt buộc đối với mô hình xã NTM kiểu mẫu.

Trên cơ sở tham khảo các tiêu chí đánh giá NTM ở giai đoạn mới, phân tích các bộ tiêu chí đánh giá LTM và chuyển đổi số nông thôn trên thế giới. Nội dung tham luận đã đề xuất được các định hướng về chuyển đổi số quản trị nông thôn theo hướng tiếp cận làng thông minh. Trong giai đoạn hiện nay, chuyển đổi số trong nông thôn mới đang được Chính phủ quan tâm và đẩy mạnh nhằm mục tiêu xây dựng nông thôn Việt Nam ngày càng hiện đại, văn minh và thông minh.

Sau nhiều năm triển khai chương trình Nông thôn mới, diện mạo nông thôn Việt Nam đã thay đổi từng ngày, cơ sở hạ tầng được nâng cấp, thiết chế làng xã được gắn với việc phục vụ người dân nhiều hơn, hạ tầng viễn thông - công nghệ được triển khai đến tận thôn bản, giá thiết bị rẻ, do đó người dân sử dụng điện thoại thông minh ngày càng nhiều.

Do đó, kéo theo các vấn đề/nhu cầu tương tác có sử dụng các ứng dụng công nghệ trong cộng đồng nông thôn ngày càng gia tăng. Mặt khác, Chính phủ cũng đã ban hành 06 chương trình chuyên đề trong xây dựng NTM là các chương trình phát triển kinh tế nông thôn theo hướng nội sinh và nhìn ra toàn cầu, điều này khơi dậy một phong trào khởi nghiệp dựa trên các thế mạnh địa phương sẵn có và đổi mới sáng tạo trong cộng đồng nông thôn. Đây là những tiền đề để ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ kết nối nhằm xây dựng các dịch vụ, sản phẩm nông thôn tốt hơn, phù hợp với xu thế phát triển kinh tế - xã hội trong thời đại 4.0.

PGS Đào Thế Anh, KS Lê Anh Hoàng, KS Nguyễn Đình Tĩnh