Ông Vệ Thạch Đào Duy Anh

13/04/2024 21:06

Công việc “phỏng vấn” ông Đào Duy Anh, tác giả những bộ Hán Việt từ điển, Pháp Việt từ điển, tôi đã định từ lâu và tuy tôi đã có dịp gặp tiên sinh nhiều lần ở Hà Nội khi thì tôi đi thăm tiên sinh, khi tiên sinh có thì giờ lại thăm chúng tôi nhưng không bao giờ chúng tôi thấy có được nửa giờ để làm công việc ấy. Vào đến nhà, nói được vài câu chuyện thì hình như cái xe đạp để ngoài cửa thúc giục tiên sinh đi nơi khác. Tiên sinh đi về công việc nhà in, thăm các bạn nhà văn, hoặc thăm một vài nơi cổ tích ở gần Hà Nội.

Thành ra, tuy có cái tính lười đi, vừa rồi vào dịp Tết, chúng tôi cũng phải đi Huế để được gặp tiên sinh. Chúng tôi vào đến nơi thì tiên sinh cũng vừa đi khảo sát ở vùng Nghệ An mới về.

- Đã lâu nay không mấy khi tôi “ăn Tết” ở nhà. Ở nhà Tết nhất buồn quá nên tôi tự ý “phiêu lưu”, hoặc nhân nghỉ Tết đi xa để thăm những nơi phong cảnh có tiếng, hoặc đi lùng các miền giàu cổ tích để tìm những dấu vết nguồn xưa hay lượm lặt sách nát, công việc mà trong những kì nghỉ hè, tôi thường làm luôn. Như năm nay, bãi trường, tôi liền đáp xe đi Vinh và sáng ngày sau đi đến Trường Lưu, Lai Thạch là quê Nguyễn Huy Tự, tác giả sách Hoa tiên kí, mượn được gia phả, hành trạng, bút tích và di thảo của Huy Tự, tựu trung quí nhất là một bản Hoa tiên kí nôm, giống như bản gốc, chưa bị Nguyễn Thiện nhuận sắc.

Bữa sau, tôi cùng với hai người bạn là Ng. Th. L. ở Hà Nội và H. D. T. ở Vinh đi thăm kho sách nhà họ Cao ở Phủ Diễn của cụ Cao Xuân Dục, là kho sách xưa to nhất ở Trung Kì. Chúng tôi đã được nhà ấy đặc cách cho chúng tôi soạn cả ra và đến kì nghỉ hè này, chúng tôi sẽ trở lại để xem một lần nữa.

Sau đó, chúng tôi đi thăm quê cụ nghè Nguyễn Xuân Ôn, lấy được hành trạng, di văn và bút tích.

Ngày mồng một, mồng hai Tết, chúng tôi đi tìm gia phả họ Hồ ở Ngũ Bào, huyện Quỳnh Lưu là quê quán Hồ Quý Ly. Chúng tôi tìm được gia phả họ chính và mấy chi ở trong vùng…

 Ngày Tết, mình là người lạ đến thăm, đến đâu cũng cứ hỏi xem gia phả, thế mà không những không bị người ta mắng đuổi, lại còn được người ta đưa gia phả cho mình mượn đem về nữa, âu cũng là cái duyên của nhà khảo sát…

Gốc tích và sự nghiệp họ Hồ là một vấn đề lịch sử quan trọng lắm; may ra nhờ ít tài liệu chúng tôi đã có và những tài liệu sẽ gắng kiếm thêm, cũng có thể rọi vào được ít nhiều ánh sáng.

 

Tôi sinh ngày 21 Mai (tháng Năm) 1905, tại làng Bi Kiều, huyện Nông Cống (nay là phủ), tỉnh Thanh Hóa, là nơi cha mẹ ngụ cư, nhưng trong giấy khai sinh lại khai lầm rằng sinh ở chính quán là làng Khúc Thủy, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông.

Lên bảy tuổi (tức sáu tuổi Tây), tôi bắt đầu học chữ Hán với một ông đồ ở làng bên cạnh, cha mẹ cho học chữ Hán, mục đích theo đường khoa cử; được ít lâu ở huyện mở trường Pháp Việt, nhưng cha mẹ tôi lại gửi ra Thanh Hóa cho học trong một năm với một ông đồ dạy vừa chữ Nho vừa chữ Quốc ngữ, rồi thấy xung quanh trẻ con đều bỏ học chữ Nho theo học chữ Pháp, cha mẹ tôi cũng theo phong trào, cho tôi nghỉ học chữ Hán vào trường Pháp Việt. Bấy giờ tôi mười một tuổi (tức mười tuổi Tây).

Trong bốn năm học chữ Pháp, chữ Hán quên dần.

Năm 1919 đậu Sơ học, tốt nghiệp, lại theo bực Cao đẳng tiểu học, đến năm 1923 thì tốt nghiệp.

Trong khi học ở bực Cao đẳng tiểu học, tiên sinh đã thấy có xu hướng về quốc văn chưa?

 Tuy trong bốn năm ấy cũng có học chữ Nho và quốc văn, nhưng tôi chẳng chăm gì cả, chỉ chăm Pháp văn… Bấy giờ tôi chỉ là một người học trò giỏi, nhưng không có biệt tài, không có đặc sắc

Đậu tốt nghiệp Cao đẳng tiểu học, vì nhà nghèo khi mình đi học dầu là hưởng học bổng, cha mẹ đã phải vay mượn nhiều để cung cấp cho mình về sách vở và quần áo, vả lại nhiều em còn phải đi học nên tôi phải đi làm để giúp đỡ cha mẹ, trả nợ và nuôi em. Tôi đi làm giáo học, được bổ đi Đồng Hới (Quảng Bình) cùng năm ấy.

Trước khi đi làm giáo học, tôi xin làm thư kí ở trường Uyên Bác ở Huế là trường đào tạo các quan lại tân học, tức là trường Hậu bổ cũ, vì sau khi thi đậu, nghĩ mình tuy đứng thứ nhất thứ nhì trong lớp, nhưng sức học của mình còn kém mà gia đình lại bắt buộc phải đi làm, cho nên muốn xin làm việc ở đó để có thể lợi dụng thì giờ rảnh mà đọc sách ở tủ sách dồi dào của trường ấy. Nhưng xin không được, phải đi làm giáo học.

Ở Đồng Hới ba năm, ngoài thì giờ dạy học là cắm đầu vào việc tự học. Một mặt học thêm chữ Pháp theo chương trình trung học của một trường hàm thụ ở Pháp. Một mặt học chữ Hán. Việc học chữ Hán rất khó khăn, thầy học không có, sách học thiếu. Nhờ khi nhỏ có học được ít năm, nay sẵn có một số chữ đã thuộc, bèn đem những bài chữ Hán ở tạp chí Nam Phong cùng những tạp chí Tàu mượn của một người Hoa kiều, hễ gặp chỗ khó thì đã có các ông cựu học thuộc chính phủ Nam triều làm việc ở tỉnh mà mình đã kiếm cách giao du bằng lối xướng họa văn thơ, chỉ vẽ cho.

Kể bấy giờ mới bắt đầu công việc tự học và cũng bắt đầu làm thơ quốc văn. Gọi là làm thơ, nhưng chẳng qua chỉ là chắp chữ thành câu chứ chẳng có thi tứ chi cả.

 Tiên sinh còn giữ được thơ làm vào thời bấy giờ?

 Tập thơ ấy, sau tôi xem thấy tầm thường quá sức nên đã xé và tự hẹn không bao giờ làm thơ nữa.

Tuy vậy, đó cũng là cái triệu chứng tiên sinh đã có xu hướng về quốc văn. Về môn này, bấy giờ có chủ tâm nghiên cứu không? Có nhớ bài thơ hay bài văn nào đăng báo đầu tiên không?

Cũng trong thời bấy giờ, tôi lần mò đọc những bài quốc văn trong Nam Phong, thấy có thú vị, cho nên trong khi học chữ Hán, tôi cũng học luôn cả quốc văn nữa. Tôi còn nhớ cái phần từ vựng ở cuối những tập Nam Phong đầu giúp cho việc học quốc văn của tôi nhiều lắm. Tôi đóng riêng một quyển vở nhỏ, chép tất cả những chữ trong mục ấy để khi rảnh giở ra xem cho tiện. Đồng Hới là nơi cô tịch nên ít được bàn bạc về việc học cùng bạn bè; trong hai năm đầu chỉ học chứ không viết, đến năm thứ ba nhân quan Hiệp tá trí sĩ Hoàng Côn ở Đồng Hới tạ thế, quan Công sứ tỉnh ấy đọc một bài điếu văn, sau một người con cụ Hiệp có quen tôi nhờ tôi dịch bài điếu văn ấy ra quốc văn. Bài văn dịch ấy đăng lên báo Trung Bắc tân văn, được các nhà thức giả ở Đồng Hới khen là dịch được, đó là bài văn, văn dịch, đăng báo đầu tiên của tôi.

Năm 1925, có những trào lưu tư tưởng mới…

Năm 1926, tôi bắt đầu viết báo chữ Pháp, thấy những bài của mình nói về thời sự trong nước gửi vào báo Echo annamite của ông Nguyễn Phan Long ở Sài Gòn được đăng cả, trong lòng bèn sinh ra hứng thú làm báo. Nhiệt huyết bấy giờ khiến chỉ chờ có cơ hội thuận tiện là bỏ nghề gõ đầu trẻ ra góp sức với đời, cái đời khổ sở, đau đớn, nhục nhã làm sao, chứa chan bao nhiêu hi vọng.

Kì nghỉ hè năm 1926, trái với mấy năm trước, tôi không về quê mà lại vào Tourane thăm một người bạn học, rồi thuê nhà ở bãi biển Mỹ Khê trong mấy tháng để học và đọc báo trong cảnh thanh tĩnh. Ở Tourane bấy giờ, trào lưu tư tưởng mới đang bồng bột… Sau khi cụ Huỳnh Thúc Kháng người Quảng Nam, được bầu làm Viện trưởng viện Dân biểu thì trào lưu mới ấy lại càng bồng bột hơn nữa. Tôi được gặp cụ Huỳnh ở Tourane, dạo này cụ đang trù tính việc lập báo Tiếng Dân. Vì hâm mộ cụ là người già cả… mà bây giờ còn hăng hái ra gánh vác với thanh niên một phần việc, tôi liền quyết định xin nghỉ dạy học để ra giúp cụ Huỳnh. Nhưng nghề làm báo tôi chưa biết gì nên phải vào Sài Gòn ở ba tháng để tập việc. Xong lại trở ra Tourane để giúp cụ Huỳnh về việc lập Huỳnh Thúc Kháng công ti và mua nhà in để mở báo Tiếng Dân.

Tháng Aout (tháng Tám) 1927 báo Tiếng Dân ra số đầu, toà soạn chỉ có cụ Huỳnh làm chủ nhiệm kiêm chủ bút và tôi làm trợ bút. Bấy giờ tôi vừa làm báo, vừa làm sách để phổ thông những tư tưởng và học thuyết mới của phương Tây là những thứ mà trong năm 1925 cùng khi nghỉ ở Tourane và tập việc ở Sài Gòn, tôi mới thâu thái được. Cả mấy việc ấy, tôi đều làm rất hăng hái, có khi quên cả ăn ngủ.

Tiên sinh cho biết những sách ấy là những sách nào?    

Các sách ấy là tập Quan Hải tùng thư những sách đầu tiên của tôi. Sách xuất bản không chạy lắm, nhưng hễ ai đọc là hoan nghênh: người đọc phần nhiều là những người có chút nhiệt tâm về thời cuộc và vì sách biên dịch giới thiệu những học thuyết mà họ không thể tìm kiếm ở những sách thường thấy.

 

 Từ đầu 1928 đến cuối 1929, Quan Hải tùng thư ra được mười chín tập sách nhỏ từ 50 đến 120 trang, tựu trung có bảy quyển của mấy người đồng chí và mười hai quyển của tôi. Quyển đầu là Trí khôn, quyển cuối là Tôn giáo.

Vì lẽ gì, sau này “Quan Hải tùng thư” không ra tiếp nữa?

Năm 1930, tôi bỏ không làm báo Tiếng Dân và công việc biên dịch sách mới cũng không theo được một cách liên tiếp như trước nữa. Tuy vậy, cũng ra thêm được một quyển Chính trị nước Pháp và một quyển Thế giới sử. Vả lại hồi bấy giờ tôi đang soạn Hán Việt từ điển.

Tiên sinh cho biết về quyển từ điển ấy, bắt đầu soạn nó vào những trường hợp nào, những phương pháp làm việc của tiên sinh?

Sơ tâm, tôi không định soạn sách này. Những khi tôi học quốc văn ở Đồng Hới, tôi thường chép riêng những danh từ chữ Hán để học và tra cứu cho biết rộng nghĩa.

Khi tôi biên dịch các sách Quan Hải tùng thư, ở sau mỗi quyển, tôi thường để một mục từ khảo để ghi những danh từ chữ Hán khó, nghĩa có dùng trong sách. Soạn những mục từ khảo ấy cũng tốn công phu lắm. Tra cứu được chữ nào, tôi đều có chép riêng ra từng tập. Những khi đọc sách báo, gặp chữ khó, tôi cũng thường chép riêng ra.

Năm 1930, theo việc buôn bán; thực ra thì chỉ có vợ tôi buôn bán. Tôi chỉ giúp vợ tôi mà thôi, cho nên có nhiều thì giờ. Nhân đó, những tập biên chép về từ ngữ thấy cũng được khá nhiều. Tôi bèn nghĩ rằng nếu kê cứu thêm và đem sắp thành một quyển sách, có thể đem cái kinh nghiệm của mình mà giúp cho những người tự học như mình bớt được một bước đường khó khăn. Mục đích biên tập Hán Việt từ điển chỉ có thế thôi. Công dụng của nó có rộng hơn thì cũng là ngẫu nhiên chứ khi làm sách ấy thời kẻ thư sinh hai mươi lăm tuổi đầu không có xa vọng gì lắm.

Thế là bắt đầu làm… làm đêm làm ngày, làm say sưa. Tuy công việc không có thú vị lắm, nhưng chí đã định thì lòng phải gắng. Thực ra thì chỉ gắng buổi đầu, chứ về sau thì “quen”, sự gắng thành ra tự nhiên. Thường thường cứ sáng dậy là làm việc suốt cho đến trưa, rồi ăn cơm xong lại làm suốt cho đến chiều, ăn cơm tối xong rồi mới đọc báo, đọc sách đến 11-12 giờ. Một ngày phải làm việc đến 15-16 giờ, mà làm Hán Việt từ điển có đến 12-13 giờ. Nhưng bấy giờ sức đương dai, tuy không được khỏe lắm.

 

 Tôi phải thuê một người thư kí, gọi là thư kí cho oai, giao cho người ta sắp đặt lại thành fiches, những tập tôi biên chép về từ ngữ trong mấy năm trước. Tôi lại mượn những tập báo chí, nhất là Nam Phong và Hữu Thanh, giao cho vợ tôi và người thư kí đọc hết để trích ra tất cả những danh từ chữ Hán, rồi chép thành fiches theo thứ tự “a, b, c”. Tôi xem các fiches ấy, lựa lọc lại nhiều lần, đem những sách từ điển của Tàu như:

Từ nguyên

Vương vân ngũ đại từ điển

Quốc văn thành ngữ từ điển

Trung Hoa bách khoa từ điển

Học sinh từ điển

Hán Anh từ điển

Hán Pháp từ điển

Cùng là:

Từ điển Genibrel

Từ điển Paulus Của

để đọc mà đối chiếu với các fiches và biên thêm những chữ thiếu vào.

Xong công việc đối chiếu ấy là có thể chắc rằng không thiếu mấy chữ nữa, thế mà vẫn cứ thiếu nhiều mới khổ chứ, tôi lại giao cho thư kí chép ra fiches mới, vừa chép vừa sắp đặt lại tạm theo thứ tự “a, b, c” rồi tôi lại phải soát lại xem họ có chép sót không. Sót lại thêm vào.

Xong việc ấy, bây giờ phải đem các fiches ra mà dịch nghĩa từng chữ, từng từ ngữ. Công việc này khó khăn và tỉ mỉ nhất. Ngoài những sách từ điển kể trên kia dùng để tham khảo, thỉnh thoảng tôi lại phải nhờ đến các sách Quảng sự loại, Bộ Văn vận phủ, Cố sự Quỳnh lâm để tra thêm điển cố.

 

 Bây giờ, tôi không nhớ là những việc ấy làm trong bao lâu. Tôi chỉ nhớ có nhiều khi bận lắm, tôi phải bỏ cả việc đọc sách để học thêm mà dùng vào Hán Việt từ điển đến cả 15-16 giờ mỗi ngày.

Khi định nghĩa và biên chép tinh tế rồi, tôi lại đưa nhờ cụ Phan Sào Nam, biệt hiệu là Hãn Mạn Tử và một ông bạn vong niên là Lâm Mậu, biệt hiệu Giao Tiều, nhuận chính cho; tôi nhờ hai bực tiền bối ấy giúp cho được nhiều lắm. Nay hai người ấy đều quá cố rồi, nhân có dịp này nhắc đến hai tên quí mến ấy, tôi xin thành thực thanh minh rằng không có hai người ấy thì sách Hán Việt từ điển của tôi không thể thành hình mà thoát thai được.

Tôi tự nhận rằng cứ cách làm việc của tôi đó thì chưa có thể dùng tài liệu cho đầy đủ được, cho nên cuốn sách ấy còn là giản lược và không khỏi có nhiều điều thiếu sót. Nếu có cơ hội tái bản, tôi sẽ gắng dùng hết cả những tài liệu còn thiếu và sẽ thêm bớt, sửa chữa cho thành một quyển sách nhất định…

Trong khi làm, có lúc nào tiên sinh thấy nản không?    

Khi làm sách ấy, tôi thấy cái gì cũng khó khăn, nhưng không hề nản. Song lắm lúc bực quá. Vì nhà hẹp, bàn làm việc của tôi phải đặt ở cùng một gian với cửa hàng sách “Vân Hòa” của vợ tôi. Vả chăng nhà hàng không có người làm công, tôi phải ngồi đó để phòng khi vợ bận việc thì mình trông hàng giùm. Việc tỉ mỉ và phải làm ở giữa gian hàng có lúc náo nhiệt, không khỏi có những người khách hay thóc mách đi lại sau lưng để nhìn xem mình làm cái gì. Ở hoàn cảnh ấy, mình phải tập cách ngưng thần. Nhờ vậy, có khi người ta la hét ở bên tai mà tôi không để ý… Nhưng cũng vì thế mà sinh ra đãng trí. Có lúc đương tìm định nghĩa một chữ rất lôi thôi mà có người vào mua một ngòi bút một xu cũng phải bỏ việc đó đứng dậy bán giùm cho vợ đi vắng.

Đến nửa năm 1932 thì thành cảo. Những nỗi khó khăn trước, tự sức mình đã thắng được cả, nhưng cái khó khăn hơn là việc in.

Sách này bấy giờ in thì chỉ tốn sáu, bảy nghìn, nhưng vốn in không có lấy một đồng thời làm sao mà in được? Song tôi tin chắc rằng sách này ra thì được hoan nghênh, vì nó là sách cần cho người ham học. Tôi bèn dùng cách bán dự ước (souscription) để thu trước một ít tiền mà đặt cọc cho nhà in. Muốn in cho mau, tôi chia sách ra làm hai quyển, nhờ nhà in Tiếng Dân ở Huế in quyển thượng, nhà in Lê Văn Tân ở Hà Nội in quyển hạ. Khi giao thiệp việc in xong thì quả nhiên những người dự ước đầu tiên đã gửi tiền về, nhờ thế mà có được mấy nghìn bạc đặt nhà in.

Quyển sách ấy mà in được, tôi hoàn toàn nhờ vào sức ủng hộ của tư nhân, của những người đồng bào ham học, nhất là những người làm việc ít lương sẵn lòng tín nhiệm tôi mà đặt tiền trước cho. Hạng người ấy, khi nào tôi cũng coi là bạn thân của tôi; mà sau này, đến khi ra sách Pháp Việt từ điển tôi cũng nhờ họ nhiều lắm.

Khi sách ra rồi thì bán có hơi chậm, không có tiền trả nhà in, tôi đành phải đi “bán dạo” một vòng trong khắp Nam Bắc, nhờ thế mà khỏi nợ nhà in. Từ khi bắt đầu in Hán Việt từ điển, tôi đã biết rằng sách ấy cần dùng thì không sợ không bán được. Bởi vậy dầu phải bán dạo, tôi cũng không hề nản chí.

Hiện nay đang có trào lưu quay về cổ điển, việc tái bản quyển từ điển của tiên sinh là một việc thiết yếu…?

Chúng tôi cũng biết vậy, nhưng hiện nay, sau khi soạn bộ Pháp Việt từ điển, nghĩ đến những lúc cặm cụi làm lại bộ ấy cho đầy đủ, tôi chán lắm.

Tiên sinh cho biết về việc soạn bộ “Pháp Việt từ điển”?

Bộ này, tôi cho là cũng cần thiết cho thanh niên ta, thứ nhất là về việc giúp cho những người xưa nay chỉ học Pháp văn, muốn học quốc văn. Vì sao tôi làm sách ấy, tôi đã nói ra trong bài tựa rồi.

Phương pháp làm việc của tiên sinh như thế nào?

 Sách này tôi làm dễ hơn sách Hán Việt từ điển, vì soạn quyển trước, mình phải tìm lấy từ ngữ cho đủ, rồi lại phải sắp thành thứ tự theo chữ Quốc ngữ và theo chữ Hán, còn Pháp Việt từ điển chỉ cần lấy mấy quyển từ điển của Pháp làm căn cứ, rồi đem dịch thôi.

 

Tôi lấy sách Larousse Universel và Larousse du XXè siècle làm gốc. Về việc phiên dịch, có tham khảo nhiều sách và nhiều từ điển chuyên môn, nhất là các sách về động vật học và thực vật học xuất bản ở Đông Dương, các từ điển cũng nhiều: Pháp Việt từ điển của Trương Vĩnh Ký, của Vallot, của Mausseron, Pháp Hoa từ điển của ông Tiêu Tử Cầm, Anh Hoa đại từ điển của ông Hoàng Sĩ Phục, Phật Hoà đại từ điển của các ông Quang Lai, Triết Sĩ…

 

Tôi bắt đầu biên tập sách này vào nửa sau năm 1932, nhưng ý định đã có từ lâu và đã dự bị từ năm 1928, tức là khi đang làm Quan Hải tùng thư. Trong lúc phiên dịch những sách về tư tưởng và học thuyết phương Tây, tôi đã nhiều lần nhớ đến quyển sách Pháp Hoa từ điển của Tiêu Tử Cầm (Thương vụ ấn thư quán, Thượng Hải) để dịch chữ Pháp ra quốc văn. Bấy giờ có một người bạn vong niên là Nguyễn Đan Quế hiện nay ông là một người ẩn sĩ ở Thanh Hóa, tự cày ruộng lấy mà ăn cùng làm việc toà soạn báo Tiếng Dân, tôi bàn với ông ấy cùng nhau dựa vào bộ Pháp Hoa từ điển ấy mà làm một bộ từ điển Pháp Việt nhỏ. Chúng tôi đã bắt đầu làm được một ít, nhưng sau ông Nguyễn Đan Quế trở về Thanh mà tôi thì bận nhiều việc, không thể làm được. Song thỉnh thoảng, khi rảnh, tôi cũng đem ra làm tiếp…

Đến năm 1930 thì bắt đầu làm Pháp Việt từ điển. Trong mấy năm 1930, 1931, 1932 tuy không chuyên, nhưng thỉnh thoảng tôi cũng đem ra làm mấy trang, coi như một việc giải trí. Mãi đến cuối năm 1932, công việc mới quyết định và làm chuyên. Bấy giờ, tôi làm rộng hơn trước nhiều. Tính ra công việc làm tám năm, nhưng ba năm rưỡi đầu làm lơ láo, đến bốn năm rưỡi sau mới làm chuyên cần được.

Việc làm từ điển này ít vất vả hơn từ điển trước, một là hàng sách đã thuê được rộng, có chỗ để bàn làm việc kín đáo và nhờ được đứa em trông hàng, tôi không phải bận tâm đến việc buôn bán; hai là vì có dạy học nên đầu óc không đến nỗi túi bụi vào đấy.

Giữa năm 1936 thì thành cảo, cũng nhờ cách bán dự ước và nhờ những người đồng bào ham học ủng hộ nên mới in được. In từ năm 1936 đến cuối năm 1939, đầu năm 1940 mới xong.

Làm sách này, chỉ một việc biên dịch nhưng gặp những chữ khó, lắm khi tìm kiếm và suy nghĩ cũng vất vả lắm. Cũng có dùng fiches, nhất là để ghi những từ ngữ về chuyên môn, để tra cứu cho rộng mà dịch, nhưng ít fiches hơn quyển trước. Khó nhất là những từ ngữ về chuyên môn và khoa học, những tên chim muông, cá, sâu bọ, cây cỏ, v.v… Tôi chỉ xem nó là một cuộc thí nghiệm, không biết rồi tôi có chí có gan ngồi mà sửa lại cho nó đầy đủ nữa không. Xin thú thực rằng những lúc cặm cụi vào bộ sách ấy, tôi chán lắm. Không phải tôi đâm ra nhác đâu, làm những việc khác, tôi vẫn có thể cặm cụi như thế được, nhưng việc làm từ điển khiến tôi phải sợ.

 Tiên sinh có soạn sách “Việt Nam văn hóa sử cương”?

 Tôi làm quyển này là nhân có dạy quốc văn ở trường tư Thuận Hóa. Sau khi trong chương trình Cao đẳng tiểu học có thêm môn Việt Nam văn hóa, tôi tự hỏi không biết sẽ dạy thế nào? Tôi nghĩ luôn đến cả những nỗi khó khăn của các bạn đồng nghiệp. Tôi bèn đi tìm kiếm tài liệu để dạy và nhân thể tổ chức các tài liệu ấy thành một quyển sách có thể giúp cho các thầy dạy quốc văn như mình đỡ công tìm kiếm. Vì ngày thường đọc sách, tôi hay ghi chép; những sách về văn hóa lịch sử nước nhà, tôi cũng hay tìm tòi, cho nên đến khi tìm tài liệu thì có dễ dàng. Nhưng tôi cũng không thỏa mãn về sách ấy lắm, chỉ coi nó là một mớ tài liệu để cho những người muốn soạn bài “Việt Nam văn hóa” dùng mà dạy học trò.

Trước kia, tôi định sau này sẽ viết lại sách ấy nữa, vì thấy rằng quyển sách Việt Nam văn hóa sử cương, muốn được đầy đủ thì phải tổng hợp những kết quả của các cuộc nghiên cứu, phân tích về văn hóa, mà việc nghiên cứu, phân tích chưa có thì chưa nên vội làm sách tổng hợp. Quyển sách của tôi đó, tự tôi cho chỉ là ghi cho tôi đại khái những vấn đề cần phải chia ra mà nghiên cứu kĩ càng. Tôi sẽ tùy tiện lựa chọn những vấn đề có thú vị trong ấy mà nghiên cứu.

 Và tập “Khổng giáo phê bình tiểu luận”?

 Như trong bài tựa, tôi đã nói, nó chỉ là một bài diễn thuyết chưa đọc. Nguyên một người bạn chủ trương một hội học mời tôi làm một bài diễn thuyết ở hội ấy về Khổng giáo, tôi nhận lời và viết xong cảo rồi, nhưng sau tôi nghĩ đem bài ấy ra đọc có điều không tiện. Số là kiến giải của tôi đối với Khổng giáo có nhiều điều không hợp với thuyết chính thống, cần phải biện minh kĩ càng thì người nghe mới khỏi cho là quái lạ. Muốn biện minh kĩ càng, không thể bằng nghị luận mà cần phải dẫn sách nữa. Đứng trên diễn đàn mà cứ chứng dẫn điển tích không ngớt thì làm sao khiến người nghe không chán được? Bởi vậy, tôi mới lấy cảo bài diễn văn ấy viết thêm ra thành sách đem in.

Tôi định khi nào tư tưởng của tôi thật chín, khi đã đọc được nhiều sách về Khổng giáo nữa tôi sẽ viết kĩ sách này, lấy Khổng giáo làm trung tâm, nhân đó nghiên cứu đến cả cái trào lưu tư tưởng trọng yếu của Trung Quốc. Nhưng đó chỉ là dự định, không biết có thì giờ mà làm việc đó hay không, vì hiện nay tôi đương bận nghiên cứu về sử học.

Tiên sinh sắp cho xuất bản “Trung Hoa sử cương”?

 Sách này là một quyển sách biên dịch, nó chỉ có tính cách phổ thông để bổ khuyết một chỗ thiếu trong học giới ta. Làm sách ấy, không phải dụng công nhiều lắm.

Ngoài ra, tiên sinh còn dự định soạn những sách nào?

 Kể dự định thì nhiều, nhưng còn phải tùy lực. Tôi đã soạn xong tập Khảo luận về Kim Vân Kiều, tức là những bài giảng về quốc văn của tôi góp lại, rồi sắp đặt thành đoạn lạc. Nó chỉ viết riêng cho một hạng độc giả là học sinh. Tôi vốn không phải là nhà phê bình văn học nên muốn cho sách ấy có tính chất khảo cứu hơn là phê bình.

Hình như tiên sinh có dự bị soạn quyển “Văn pháp Việt Nam” và một quyển nói về nhà ái quốc Nguyễn Trường Tộ?

Tôi có viết ít bài về văn pháp đăng trong tạp chí Tri Tân, nhưng chỉ là những bài dùng dạy học trò. Tôi in ra để khêu gợi độc giả bàn về văn pháp. Nhưng thấy chẳng ai bàn nên tôi bỏ không đăng tiếp nữa. Còn soạn hẳn thành một tập sách thì tôi chưa có ý định, vì tôi cho rằng về văn pháp, chúng ta hiện nay cần phải nghiên cứu những vấn đề đặc biệt cho nhiều, rồi sau này và chắc còn lâu, mới có thể tổng hợp các vấn đề đặc biệt lại mà làm văn pháp được.

 

 Những quyển văn pháp đã ra, tôi đều bất mãn ý cả.

Còn tôi cũng có định soạn một quyển về Nguyễn Trường Tộ, thu thập tài liệu đã lâu và đã được nhiều…

Tiên sinh đang nghiên cứu về sử, chắc để soạn một bộ Nam sử?... Ý tiên sinh về những quyển Nam sử đã có thế nào và tiên sinh cho biết ý kiến tiên sinh đối với trào lưu sử học ngày nay?    

Tôi vốn khi nhỏ thất học, chỉ nhờ công tự học mà biết ít nhiều. Nhưng vì tự học cho nên sự học thiếu căn bản. Bởi thế cho nên những sách tôi làm bấy lâu nay không có giá trị gì. Nó chỉ là chứng cứ của một nền học vấn non nớt và hổ lốn. Nhiều khi tôi soát lại những việc đã làm thì tôi tự thẹn, nhất là thẹn rằng cái sự nghiệp văn học non nớt và hổ lốn ấy đã tạo cho mình một cái hư danh mà tôi cho là rất nặng nề. Như hai bộ từ điển, người ta cho là những sách có ích, có giá trị nhất của tôi thì tôi lại cho nó là tầm thường lắm; mỗi khi tôi nghe người ta nhắc đến thì tôi lại ngượng.

Tuổi mỗi ngày một lớn, tôi nghĩ nếu cứ để tinh thần tản mát ở nhiều phương diện mãi thì rốt cuộc, chẳng môn gì mình học kĩ được. Khi trẻ thì cần học đủ mọi môn để rộng thu tri thức nhưng thế nào rồi cũng phải chuyên chú vào một môn gì. Mấy lâu nay tôi chỉ mới học cốt cho được nhiều, ngày nay nghĩ lại mới lo đến chuyên môn. Tôi đã xét kĩ các môn đã học, thì duy có môn sử học, sử học chính và sử học văn chương. Tôi muốn viết một bộ Việt Nam sử cương, nhưng có lẽ dăm mươi năm nữa mới xong. Quyển sử ấy, tôi chỉ định viết đại cương cuộc tiến hoá của dân tộc ta trong các thời kì, nhưng muốn viết đại cương cuộc tiến hóa ấy, cần phải giải quyết nhiều vấn đề sử học còn lờ mờ, cho nên tôi còn cần đọc sách và học nhiều lắm mới viết được.

Gặp những vấn đề chưa giải quyết được thì tôi cũng đặt vấn đề, tức là trình bày những vật liệu để giúp cho sự nghiên cứu về vấn đề ấy.

Về sử học, ngoài sự đọc sách, tôi còn đi tìm di tích xưa, vì có những vấn đề phải nhờ khảo sát cổ tích mới biết được chứ các tài liệu hiện có chưa đủ. Mới rồi đi Nghệ An là tôi cốt khảo sát về truyện Hoa tiên (lịch sử văn chương) và gốc tích Hồ Quý Ly.

Còn một điều cần thiết là dịch những tài liệu trọng yếu bằng chữ Hán, nhất là những tài liệu viết bằng tay. Hiện tôi đương đính chính, phiên dịch và chú thích hai bộ sách chữ Hán, tài liệu căn bản của lịch sử về miền Trung Kì, là bộ Ô Châu cận lục và Phủ biên tạp lục. Dịch và chú thích xong, tôi sẽ kiếm cách in để làm sử liệu cho các nhà muốn nghiên cứu lịch sử.

 …  

 Về sử học, ngày nay ta đã thấy có nhiều người nghiên cứu, đó là một điều đáng mừng. Nhưng tôi xét phần nhiều các nhà sử học ta dùng tài liệu không được thận trọng.

Một là không chịu tìm tài liệu gốc, chỉ dùng những tài liệu ngọn, những tài liệu đó người khác đã chế hóa đi mất rồi.

Hai là không chịu phê bình tài liệu mình dùng, hễ sách hay người nói trước thế nào liền cho thế là đúng chắc.

Ba là hay tin những lời truyền thuyết, những lời do miệng người kể lại, mà nêu lên cái tiếng to tát là “sử liệu sống”.

Bốn là hay có thiên kiến… nhưng nói thế nào cho hết…

Dẫu sao, như tôi đã nói, ta cũng đáng mừng rằng học giới ta ngày nay đã chú ý về sử học.

*
*    *

Chúng tôi đi thăm, kể đến Đào tiên sinh, là được tám nhà văn. Đi đến đâu, chúng tôi hỏi nào ngày sinh tháng đẻ, quê quán… những điều không nên hỏi. Đã nhiều lần, những câu chuyện của chúng tôi làm cho nhà văn phải ngần ngại… Chắc các ông đã cho chúng tôi là tỉ mỉ.

Còn bạn đọc, có người sẽ cho công việc của chúng tôi làm quá sớm và những lời nói về mình của nhà văn, vì tính cách của nó, không được nhũn nhặn lắm.

Trách như vậy, chúng tôi biết vậy.

Nhưng nghĩ…

Hãy nói riêng câu chuyện của Đào tiên sinh. Cái đời của tiên sinh với bao nhiêu ngày, tháng, năm cần cù học, học rồi để soạn những bộ sách như bộ Hán Việt từ điển, Pháp Việt từ điển, Khổng giáo phê bình tiểu luận, Trung Hoa sử cương, giúp ích bao nhiêu cho sự tiến bộ của quốc văn và sự học của đồng bào. Thế mà đến khi có những bộ sách ấy rồi, còn cho cái sự nghiệp của mình “chỉ là chứng cứ của một nền học vấn còn non nớt và hổ lốn”… Và nay, khi đã có ba mươi bảy tuổi trên vai, tiên sinh còn bắt đầu học, học chuyên môn, hi vọng sau này gây dựng được một sự nghiệp vững chắc hơn.

Cái đời học của tiên sinh chẳng đáng làm gương mẫu và câu chuyện của tiên sinh chẳng là một mối suy nghĩ cho phần đông thanh niên ta sao?

Nếu quả có, chúng tôi tưởng những lời trách trên không được hoàn toàn chính đáng.

 Lê Thanh (thực hiện)
Bạn đang đọc bài viết "Ông Vệ Thạch Đào Duy Anh" tại chuyên mục Diễn đàn. Hotline: 0846460404 - Liên hệ Quảng cáo: 0912563309