Công nghiệp Văn hóa là gì?

Phát triển công nghiệp văn hóa không chỉ là mục tiêu kinh tế mà còn là chiến lược văn hóa, cần sự chung tay của cả cộng đồng và chính quyền để đạt được những thành tựu bền vững và phát triển lâu dài.

Thuật ngữ “Công nghiệp Văn hóa” đã xuất hiện từ giữa thế kỷ 20, được đề cập trong cuốn sách "Phép biện chứng của sự khai sáng" của hai nhà nghiên cứu người Đức là Adorno và Horkheimer. Họ cho rằng văn hóa bị thống trị bởi các hàng hóa sản xuất bởi công nghiệp văn hóa, các hàng hóa này, dù mang tính dân chủ và đa dạng, thực chất lại có tính chuyên chế và tiêu chuẩn hóa cao. Thuật ngữ "công nghiệp" ở đây không chỉ quá trình sản xuất mà là sự tiêu chuẩn hóa sản phẩm và hợp lý hóa kỹ thuật trong việc cung ứng, phân phối sản phẩm.

Năm 1982, UNESCO đưa ra định nghĩa chính thức về công nghiệp văn hóa, nhấn mạnh việc sản xuất và phân phối hàng hóa và dịch vụ văn hóa trên quy mô công nghiệp, tuân theo chiến lược kinh tế hơn là phát triển văn hóa. UNESCO cũng cho rằng công nghiệp văn hóa kết hợp giữa sáng tạo, sản xuất và khai thác các nội dung văn hóa, thường được bảo vệ bởi luật bản quyền và thể hiện dưới dạng các sản phẩm hay dịch vụ.

img-8199-1720365200.jpeg
 

Tại Việt Nam, sau khi giành độc lập, vấn đề văn hóa luôn được coi trọng như nền tảng phát triển xã hội. Thuật ngữ công nghiệp văn hóa chính thức được đề cập từ năm 2014 trong Nghị quyết số 33/NQ-TW Đảng khóa XI, với mục tiêu phát triển công nghiệp văn hóa để khai thác và phát huy tiềm năng văn hóa Việt Nam, khuyến khích xuất khẩu sản phẩm văn hóa và quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới. Đại hội Đảng lần thứ XIII (2021) tiếp tục nhấn mạnh việc triển khai ngành công nghiệp văn hóa, tận dụng các giá trị văn hóa, khoa học kỹ thuật, và công nghệ của thế giới.

Chính phủ Việt Nam cũng đã phê duyệt chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đến năm 2020, tầm nhìn đến 2030 tại Quyết định số 1755/QĐ-TTg ngày 08/9/2016. Mục tiêu là phát triển ngành công nghiệp văn hóa thành những ngành dịch vụ quan trọng, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm thông qua sản xuất nhiều sản phẩm dịch vụ văn hóa đa dạng, chất lượng cao. Quyết định này xác định 13 lĩnh vực của công nghiệp văn hóa, bao gồm: quảng cáo, kiến trúc, phần mềm và các trò chơi giải trí, thủ công mỹ nghệ, thiết kế, điện ảnh, xuất bản, thời trang, nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm, truyền hình và phát thanh, du lịch văn hóa.

Công nghiệp văn hóa tại Việt Nam có nhiều điểm mạnh như nền văn hóa đa dạng, con người sáng tạo, lịch sử phát triển thích ứng cao, sự đoàn kết và cần cù, hội nhập quốc tế và các chính sách hỗ trợ. Tuy nhiên, cũng tồn tại những điểm yếu như cơ chế quản trị chưa cập nhật, nhân lực chuyên ngành còn thiếu, khái niệm và nội dung công nghiệp văn hóa chưa rõ ràng, mạng lưới kết nối chưa đồng bộ, thị trường không ổn định và kinh phí đầu tư hạn chế.

Thách thức lớn đối với phát triển công nghiệp văn hóa ở Việt Nam bao gồm hành động chưa kịp thời của chính quyền, thiếu kỹ năng và kinh nghiệm, cách tiếp cận thị trường thấp, thiết chế chưa đồng nhất, nhu cầu thị trường chưa rõ ràng và sự trì trệ kinh tế. Tuy nhiên, cũng có nhiều cơ hội như thị trường tiềm năng trong và ngoài nước, sự quyết tâm của Nhà nước và Chính phủ, luật định ngày càng hoàn thiện, sự đổi mới là động lực, mạng lưới chuyên sâu đang hình thành, và sự nhập cuộc của mọi tầng lớp trong cộng đồng. 

Phát triển công nghiệp văn hóa không chỉ là mục tiêu kinh tế mà còn là chiến lược văn hóa, cần sự chung tay của cả cộng đồng và chính quyền để đạt được những thành tựu bền vững và phát triển lâu dài.