Xanh hóa: Giải pháp tăng trưởng bền vững trong biến đổi khí hậu

03/02/2022 00:31

Tại hội nghị Biến đổi Khí hậu (BĐKH)  lần thứ 26 (COP26) được tổ chức tại Glasgow ( Scotland) tháng 11 năm 2021, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cam kết, Việt Nam sẽ tham gia giải pháp về BĐKH toàn cầu; đặt mục tiêu  năm 2030 nâng tỷ lệ năng lượng sạch trong tổng cung năng lượng sơ cấp lên 20% và đên 2045 lên 30%, Thủ tướng nhấn mạnh, từng bước loại bỏ sản xuất điện than và đến năm 2050 đạt phát thải ròng bằng 0.

Là phần quan trọng trong giải pháp về BĐKH, Việt Nam cần đẩy mạnh xử lý xanh trong những năm sắp tới. Thương mại xanh hay thương mại sạch hơn với những hàng hóa thân thiện môi trường,có thể giúp Việt Nam đạt được cam kết về khí hậu với tham vọng trở thành nền kinh tế có thu nhập cao vào năm 2045.

Biến đổi khí hậu và kinh tế Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu

Thế giới chịu tác động ngày càng nhiều hơn bởi BĐKH; thương mại xanh có thể là chất xúc tác thúc đẩy áp dụng công nghệ, tạo việc làm, mở ra động lực tăng trưởng, lợi thế và thuận lợi mới cho quá trình hồi phục nền kinh tế, giúp giảm thiểu tình trạng mất an ninh lương thực. Do những thay đổi trong chuỗi giá trị toàn cầu, giảỉ pháp xanh đem lại cơ hội, đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức trong chính sách thương mại và những ưu tiên phát triển doanh nghiệp. Thực tế diễn ra chi phối lớn dòng vốn đầu tư và ảnh hưởng đến quỹ đạo tăng trưởng tương lai.

phat-trien-ben-vung2-942b6-1643823046.jpg
Xanh hóa: Giải pháp tăng trưởng bền vững trong biến đổi khí hậu

Trong báo cáo Điểm lại, cập nhật triển vọng kinh tế Việt Nam của Ngân hàng Thế giới (W.B) vào tháng 01 năm 2022, các nhà phân tích cho biết, nền kinh tế toàn cầu được phục hồi trong năm 2021, nhưng phải đối mặt với những bất định do sự xuất hiện của biến chủng Covid-19 mới. Sau hai năm khủng hoảng, quá trình phục hồi diễn ra không đồng đều với động lực yếu đi bởi nhiều rủi ro rủi ro và bất định; kinh tế toàn cầu được dự báo tăng trưởng 5,5% vào năm 2021 và khoảng 4,2% trong năm 2022.

Theo thông cáo báo chí phát đi từ Hà Nội vào hạ tuần tháng 01 năm 2022 của ngân hàng thế giới, kinh tế Việt Nam có khả năng tăng tốc 5,5% trong năm 2022. Với giả định đại dịch được kiểm soát, tổ chức này cho rằng, khu vực dịch vụ sẽ phục hồi khi người tiêu dùng và nhà đầu tư lấy lại niềm tin. Thâm hụt ngân sách và nợ công được kỳ vọng ​​sẽ bền vững, với tỷ lệ nợ thấp hơn nhiều so với mức trần quy định. Tuy nhiên, triển vọng này ẩn chứa rủi ro với những diễn biến khó lường của đại dịch Covid-19. Sự bùng phát của các biến thể virus mới có thể dẫn đến tái áp đặt biện pháp giãn cách xã hội, gây ảnh hưởng bất lợi đến các hoạt động kinh tế. Đặc biệt, nhu cầu trong nước yếu đi ​sẽ ảnh hưởng lâu dài đến quá trình phục hồi kinh tế. Ngoài ra, nhiều đối tác thương mại phải đối mặt với dư địa tài khoá và tiền tệ thu hẹp, khả năng hỗ trợ sẽ bị hạn chế nếu khủng hoảng tiếp tục kéo dài.

Theo Ngân hàng Thế giới, chính sách ứng phó cẩn trọng của Việt Nam giúp giảm thiểu được rủi ro. Chính sách tài khóa hỗ trợ nhu cầu, tạm giảm thuế suất, thuế VAT và tăng chi cho y tế và giáo dục đã góp phần phục hồi kinh tế; song các nhà nghiên cứu vẫn cho rằng, hỗ trợ dành cho doanh nghiệp và người dân bị ảnh hưởng cần được tiến hành với quy mô lớn và tập trung hơn; các chương trình an sinh xã hội phải xác định đúng đối tượng và trợ giúp hiệu quả để giải quyết những hậu quả xã hội nặng nề sau khủng hoảng. Với tiêu đề “Không còn thời gian để lãng phí, những thách thức và cơ hội đối với phát triển thương mại xanh tại Việt Nam”, ấn phẩm Điểm lại của W.B kỳ này cho rằng, Việt Nam cần ưu tiên xanh hóa ngành thương mại.

Thương mại là động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong 2 thập kỷ qua, nhưng cũng là ngành có cường độ phát thải các-bon cao, chiếm tới 1/3 lượng phát thải khí nhà kính (KNK) cả nước và gây nhiều ô nhiễm. Việt Nam đã bắt đầu thực hiện giảm phát thải carbon trong những hoạt động liên quan đến thương mại. Tuy nhiên, vẫn cần hành động quyết liệt hơn để ứng phó với áp lực gia tăng từ thị trường xuất khẩu, khách hàng và các công ty đa quốc gia với yêu cầu về sản phẩm và dịch vụ phải xanh và sạch hơn.

Từ quan điểm thương mại là hợp phần trong chương trình hành động vì khí hậu trong thời gian tới, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam Carolyn Turk, cho rằng. “Thúc đẩy thương mại xanh không chỉ giúp Việt Nam thực hiện cam kết đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 mà còn giữ được lợi thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế và đảm bảo thương mại tiếp tục là nguồn tạo thu nhập và việc làm.”

Thực trạng kinh tế trong đại dịch Covid và triển vọng từ tầm nhìn ngân hàng thế giới

Năm 2021, mặc dù khởi đầu thuận lợi vào quý 1, song Việt Nam vẫn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, Bùng phát đại dịch Covid-19 kéo dài từ tháng 4 đã làm sai lệch dự kiến và để lại những hậu quả nặng nề cả về con người và kinh tế, khiến GDP cả nước trong năm chỉ tăng 2,58%. Năm 2022, với giả định đại dịch được kiểm soát, nền kinh tế sẽ khởi sắc, tăng trưởng được dự báo ở mức 5,5% và trong trung hạn sẽ trở về tăng trưởng trước Covid-19 vào năm 2023.

Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế xã hội, giới phân tích cho rằng, kinh tế Hoa Kỳ, Liên minh Châu Âu (EU) và Trung Quốc đã tăng trở lại trong năm 2021. Chính phủ những nước này bắt đầu gỡ bỏ chính sách hỗ trợ tài khóa và tiền tệ trong bối cảnh rủi ro lạm phát gia tăng; điều này làm tăng tính bất định về tác động của chính sách thắt chặt đến sự phục hồi khi đại dịch Covid mới bùng phát và khả năng tiếp cận vắc-xin còn khác nhau giữa các quốc gia.

Việt Nam bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi đại dịch kéo dài từ tháng 4 năm 2021. Cách tiếp cận “không Covid-19” của Chính phủ đã bị quá tải, dẫn đến giãn cách kéo dài và tổn thất kinh tế nặng nề. Viêt Nam đã không còn đi đầu trong xử lý tác động của Covid-19 đối với kinh tế vĩ mô như trong năm 2020. Trong một năm nhiều nước trên đà phục hồi kinh tế, Việt Nam phải vật lộn với những đợt giãn cách kéo dài tại các trung tâm lớn, khiến GDP cả nước giảm hơn 6% trong quý III/2021. Hệ quả là GDP cả năm chỉ tăng 2,58%, thấp hơn 4,2% so với dự báo của Ngân hàng Thế giới vào tháng 12 năm 2020.

Mặc dù chưa chuẩn bị trước để đối phó với bùng phát đạị dịch vào tháng 04, song các cấp có thẩm quyền đã ứng phó một cách nhanh chóng và triển khai tiêm vắc-xin diện rộng trên toàn quốc. Từ đầu tháng 07 đến giữa tháng 12 năm 2021, hơn 75% dân số đã được tiêm ít nhất một liều vắc-xin và trên 55% được tiêm đầy đủ. Những nỗ lực này đã tạo điều kiện để Chính phủ chuyển từ chính sách với những biện pháp giãn cách xã hội nghiêm ngặt sang chính sách “sống chung với Covid-19”. Theo đó, nền kinh tế được mở cửa trở lại trong khi vẫn tiếp tục thực hiện các biện pháp phòng ngừa dịch tễ.

 Đại dịch bùng phát từ đầu tháng 04 làm trầm trọng thêm tình hình thị trường lao động vốn chưa phục hồi hoàn toàn. Những giãn cách xã hội vào quý III năm 2021 đã ảnh hưởng đến khoảng 28,2 triệu lao động. Trong đó, 2,5 triệu người mất việc làm, tỷ lệ thất nghiệp tăng lên 3,7% và thu nhập thực tế của người lao động bị giảm tới 12,6% trong quý III năm 2021. Lao động trong khu vực kinh tế phi chính thức, các hộ sản xuất kinh doanh và nữ giới là những đối tượng dễ bị tổn thương nhất. Số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam còn cho thấy, đến ngày 15 tháng 12 năm 2021, cả nước có khoảng 2,2 triệu người về lại quê cũ. Với việc nới lỏng giãn cách xã hội và nền kinh tế mở cửa trở lại, thị trường lao động được cải thiện trong quý IV/2021, nhưng vẫn còn chặng đường dài phải đi trước khi phục hồi hoàn toàn.

Tuy doanh nghiệp là khu vực bị ảnh hưởng nghiêm trọng vào quý III, nhưng niềm tin kinh doanh đã được phục hồi trong những tháng cuối năm. Theo điều tra của Ngân hàng Thế giới, từ tháng 09 đến tháng 11năm 2021, tỷ lệ doanh nghiệp đóng cửa tại thành phố Hồ Chí Minh lên tới 35%. Trong số những doanh nghiệp mở cửa, có 57% phải cắt giảm giờ làm; tổng doanh số giảm 39% so với cùng kỳ của năm 2019. Tuy nhiên, dòng tiền chỉ suy giảm nhẹ nhờ chính sách hỗ trợ và phương thức quản lý thận trọng của các doanh nghiệp.

Về kinh tế vĩ mô. Có thể thấy, vị thế kinh tế đối ngoại được duy trì vững chắc, nhưng cán cân vãng lai lại chuyển sang thâm hụt. Dự trữ ngoại hối gia tăng với tổng số 107,7 tỷ USD, (tương đương với 3,7 tháng nhập khẩu) vào cuối tháng 09 năm 2021; song cán cân vãng lai bị thu hẹp, từ mức có thặng dư 4,6% GDP (năm 2020) giảm xuống thâm hụt 1,0% GDP trong năm 2021, Trong khi xuất khẩu bị ảnh hưởng nghiêm trọng, cán cân vãng lai lại được bù đắp nhờ dòng vốn FDI có lượng vốn ngắn hạn lớn đổ vào.

Cung tiền và tín dụng mở rộng đã đảm bảo thanh khoản dồi dào, trong khi lạm phát vẫn ở mức thấp. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng nhằm hỗ trợ doanh nghiệp trong khủng hoảng. Mặc dù lượng cung tiền tăng nhanh và giá cả hàng hóa thị trường thế giới lên cao, nhưng nhờ giá lương thực, thực phẩm ổn định và sức cầu trong nước yếu đi nên chỉ số giá tiêu dùng (CPI) vẫn duy trì ở mức thấp, chỉ tăng 1,84%, thấp hơn nhiều so với mức trần 4%.

Theo các nhà phân tích, ngân hàng là khu vực cần được theo dõi chặt chẽ hơn do nợ xấu gia tăng, Tỷ lệ nợ xấu điều chỉnh có thể lên đến 7,21% (nếu tính cả nợ đã được tái cơ cấu có tiềm năng trở thành nợ xấu). Tình trạng dự phòng vốn mỏng và tỷ lệ bao phủ dự phòng khác nhau giữa các ngân hàng cho thấy, một số ngân hàng đã không đủ khả năng duy trì nợ xấu. Mặt khác, dư địa tài khóa còn dồi dào. nhưng chính sách tài khóa thắt chặt vẫn được thực hiện trong năm. Theo đó, tác động của những cú sốc càng thêm nặng do thiếu hỗ trợ hiệu quả trong phần lớn thời gian của năm 2021.

Trần nợ công chính thức trong giai đoạn 2021-2025 đã được tính toán dựa trên đánh giá lại. GDP với quy mô lớn hơn khoảng 26%. Ngân sách dự kiến bội thu 120,3 nghìn tỷ đồng (khoảng 5,2 tỷ USD); tổng thu ngân sách đến hết tháng 11 đã vượt dự toán, còn tổng chi lại thấp hơn nhiều so với năm 2020. Do đầu tư công triển khai chậm trong nửa đầu năm và còn bị ảnh hưởng đáng kể trong quý III, chi thường xuyên bị ảnh hưởng bởi các quy định về tài chính công không cho phép linh hoạt điều chuyển ngân sách. Ngoài ra, chính sách ứng phó với bùng phát dịch bệnh còn khiêm tốn về quy mô với những gói hỗ trợ tài khóa tổng cộng chỉ bằng 2,5% GDP, thấp hơn so với 4,5% GDP của năm 2020. Về cơ bản, chính sách tài khóa chưa hỗ trợ đủ cho những đối tượng cần hỗ trợ trong khi dư địa tài khóa còn nhiều với ngân sách bội thu.

Thu ngân sách năm 2021 cao hơn khoảng 1,0% so với 2020. Nhờ đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công, tổng chi ngân sách tháng 11 đã tăng 9,4% so với cùng kỳ năm trước, Tuy nhiên, tính đến cuối tháng 11/2021, giải ngân chi đầu tư phát triển vẫn thấp hơn khoảng 36% so với kế hoạch của Thủ tướng Chính phủ,

Thời gian tới, tăng trưởng GDP có thể tăng trở lại từ 2,58% lên 5,5% trong năm 2022, nhưng rủi ro vẫn ở mức cao, đòi hỏi các cấp thẩm quyền phải có biện pháp chủ động ứng phó. Kết hợp nới lỏng các biện pháp hạn chế đi lại và dịch tễ, khu vực dịch vụ được kỳ vọng sẽ phục hồi khi nhà đầu tư và người tiêu dùng củng cố được niềm tin và khách du lịch quốc tế sẽ bắt đầu trở lại. Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp chế biến, chế tạo sẽ được hưởng lợi từ nhu cầu ổn định tại những nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ, EU và Trung Quốc.

Chính sách tài khóa cần được nới lỏng, ít nhất trong nửa đầu năm 2022. Các cấp có thẩm quyền đã cân nhắc để ban hành gói hỗ trợ phục hồi kinh tế mới;tuy nhiên, vẫn cần củng cố tài khóa. Do xuất khẩu của Việt Nam phụ thuộc nhiều vào đầu vào nhập khẩu, nên thặng dư chỉ ở mức khiêm tốn khoảng 1,5%-2% GDP. Theo các nhà phân tích, triển vọng tăng trưởng ngắn hạn và trung hạn của nền kinh tế toàn cầu còn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Đại dịch Covid, bao gồm các biến thể mới có thể bùng phát trên diện rộng, buộc phải tái áp đặt các biện pháp giãn cách xã hội và làm chậm quá trình phục hồi kinh tế cũng như các thị trường xuất khẩu chủ lực.

Những nền kinh tế lớn có khả năng hồi phục sẽ gỡ bỏ dần chính sách hỗ trợ, bao gồm cả chính sách tiền tệ sẽ ảnh hưởng đến khu vực tài chính ở nhiều nền kinh tế mới nổi; nhiều quốc gia sẽ không còn dư địa để áp dụng các chính sách tài khóa và tiền tệ nhằm xử lý khủng hoảng kéo dài. Trong xu thế kinh tế toàn cầu, tốc độ tăng trưởng của Hoa Kỳ và Trung Quốc, là 2 thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, sẽ lần lượt giảm xuống còn 3,8% và 5,1% trong năm 2022. Điều này làm tăng tính bất định và rủi ro cho đà phục hồi của kinh tế toàn cầu, qua đó có thể ảnh hưởng đến xuất khẩu và quá trình phục hồi kinh tế của Việt Nam.

Cùng với những bất định trong tương lai, các cấp có thẩm quyền ở nhiều quốc gia đã tiến hành những biện pháp giảm thiểu tác động của rủi ro tài khóa, rủi ro xã hội và trong khu vực tài chính. Không giống như nhiều quốc gia khác. Việt Nam còn dư địa tài khóa, nhưng chưa sử dụng đủ để hỗ trợ kinh tế. Theo các nhà phân tích, không đẩy mạnh hỗ trợ tài khóa vào thời điểm khủng hoảng sâu sẽ gây khó khăn cho nhiều hộ gia đình và người lao động trong khu vực phi chính thức, làm tổn hại nền kinh tế và có thể đảo ngược những thành quả xóa đói, giảm nghèo. Hệ lụy dẫn đến là mất đi khoản chi tiêu cần thiết để hỗ trợ tiêu dùng và đầu tư nội địa.

Chính phủ có thể đảm bảo hỗ trợ cho các chương trình xã hội như mạng lưới an sinh, chi cho sự nghiệp giáo dục và y tế. Cùng lúc, cũng có thể sử dụng một phần ngân quỹ dự trữ để tài trợ cho các chương trình ngắn hạn. Theo quan điểm của W.B, khi hạn chế đi lại trong nước được nới lỏng, có thể đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án đầu tư công.

Do chi tiêu công cần có thời gian thực hiện, nên phải cân nhắc các công cụ thu ngân sách. Chính phủ có thể áp dụng những sắc thuế nhỏ đối với giao dịch tài chính để tăng nguồn thu phục vụ chi đảm bảo xã hội. Trong dài hạn, đầu tư công, nhất là đầu tư cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực là cách để hỗ trợ tiềm năng tăng trưởng, chuyển đổi sang lộ trình xanh, số hóa và bền vững hơn.

Trong trung hạn, thống nhất dự liệu về đối tượng thụ hưởng tiềm năng và việc cung cấp dịch vụ là bước đi quan trọng nhằm cải cách hệ thống và đảm bảo hỗ trợ đầy đủ cho nạn nhân của các cú sốc thiên tai và kinh tế. Theo W.B, các nhà hoạch định chính sách cần cân nhắc một số nội dung hành động và nên có chiến lược gỡ bỏ dần các biện pháp cứu trợ ngay khi tình hình cho phép để tiếp tục đảm bảo kỷ cương, quản trị rủi ro và tài chính lành mạnh. Điều quan trọng là đảm bảo để ngân hàng sẵn sàng thực hiện các biện pháp xử lý nợ sớm và hiệu quả trong giải quyết nợ xấu. Thiết lập hoặc tăng cường cơ chế tái cơ cấu nợ và thu hồi theo pháp luật thông qua cưỡng chế tài sản đảm bảo, xóa nợ, bán hoặc mua bán nợ là những việc làm cần thiết. Nhiều nhà hoạch định chính sách cho rằng, cần tăng cường hơn nữa việc giám sát an toàn nhằm xác định sớm những ngân hàng có vấn đề và tăng cường cơ chế xử lý, bao gồm nhưng không hạn chế các biện pháp tái cơ cấu, tách riêng tài sản, sáp nhập, mua lại, cứu trợ, tái vốn hóa và thanh lý ngân hàng.

Thách thức và cơ hội đối với thương mại xanh ở Việt Nam

Trong quá trình mở cửa hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, Việt Nam được hưởng lợi nhiều từ mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu. Gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và tham gia 13 hiệp định thương mại tự do, đất nước đã có nhiều thành công trong nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua mở rộng tiếp cận thị trường và cắt giảm thuế quan; lưu lượng thương mại quốc tế đã tăng trưởng theo cấp số nhân và kim ngạch xuất khẩu đã vượt qua 106% GDP. Tuy nhiên, khu vực sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu đã để lại những dấu chân các-bon, thâm dụng tài nguyên, gia tăng thiệt hại môi trường và làm suy kiệt đáng kể tài nguyên.

Xanh hóa thương mại hàng hóa và dịch vụ là môt ưu tiên hàng đầu, có thể đóng góp vào thực hiện tiếp cận phát triển bao trùm, nâng cao khả năng chống chịu và hoàn thành mục tiêu giảm nhẹ thiên tai. Xanh hóa thương mại còn khuyến khích trang bị công nghệ mới và duy trì năng lực cạnh tranh trong thế giới các-bon thấp; tạo cơ hội để giao thương hàng hóa và dịch vụ môi trường. Đây cũng là động lực tiềm năng để tạo việc làm, giúp doanh nghiệp tận dụng cơ hội đối với hàng hóa và dịch vụ môi trường.

BĐKH ảnh hưởng lớn đến những nhóm ngành xuất khẩu quan trọng của Việt Nam là công, nông nghiệp, cũng như cơ sở hạ tầng vận tải và logistic liên quan đến thương mại. Do phần lớn mặt hàng công, nông nghiệp và xuất khẩu được sản xuất ở các vùng thấp và khu vực ven biển nên dễ bị tổn thương trước nguy cơ của nước biển dâng.

Ngành nông nghiệp Việt Nam chiếm 13,2% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra, sản xuất nông nghiệp và xuất khẩu nông sản dễ bị tổn thương trước BĐKH. Trong điều kiện thời tiết cực đoan, tổn thất sản lượng lúa có thể từ 5% đến 23% vào năm 2040, làm gia tăng nguy cơ mất an ninh lương thực. Ngoài ra, nếu mực nước biển dâng thêm 100 cm khoảng 4% hệ thống đường sắt, trên 9% đường cao tốc quốc gia và chừng 12% đường tỉnh lộ sẽ bị ảnh hưởng nặng nề.

Do sự phụ thuộc vào những công nghệ thâm dụng năng lượng và các phương thức vận tải là những nhân tố đóng góp chính vào khí thải nhà kính (KNK); các ngành hàng xuất khẩu ở Viêt Nam đã để lại dấu chân các-bon quan trọng trong nền kinh tế. Cam kết toàn cầu về giảm KNK sẽ ảnh hướng đến nhiều lĩnh vực thương mại của Việt Nam.  BĐKH và những nỗ lực quốc tế nhằm giảm nhẹ tác động hoặc thích ứng sẽ ảnh hưởng dến cả cung và cầu các mặt hàng xuất khẩu.  Những lĩnh vực chính trong nền kinh tế như công nghiệp chế biến, chế tạo; nông nghiệp và vận tải chịu tác động, làm thay đổi cơ cấu và giá trị của các mặt hàng.

Lúa gạo và chăn nuôi ở Việt Nam là lĩnh vực phát thải chính khí nhà kính (KNK). Nhiều phân tích cho thấy, lượng phát thải KNK trực tiếp ở cấp độ doanh nghiệp không lớn, nhưng liên quan đến phát thải gián tiếp từ nguồn điện, hơi tạo nhiệt, làm mát và sau cùng là vận tải đã đóng góp đáng kể vào tổng lượng phát thải. Về tổng thể, giá trị tuyệt đối của kim ngạch xuất khẩu mặt hàng chế biến, chế tạo đã đóng góp lớn vào tổng lượng phát thải. Do vậy, điều cần là sản xuất phải thân thiện hơn với môi trường.

 Kết quả phân tích mô hình kinh tế cho thấy, thuế các-bon được ban hành làm giảm đáng kể lượng phát thải mà không ảnh hưởng nhiều đến năng lực cạnh tranh của đất nước. Phần lớn những ngành hàng xuất khẩu không trực tiép phát thải khí carbon dioxit; nhưng năng lực cạnh tranh xuất khẩu lại chịu ảnh hưởng bởi chính sách giảm nhẹ của các đối tác thương mại. Thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam như Mỹ hoặc EU ngày càng đòi hỏi quy trình sản xuất sạch và hàng hóa thân thiện hơn với môi trường. Những cam kết thực hiện giải pháp xanh hơn ảnh hưởng mạnh đến các nhà sản xuất trong chuỗi giá trị thông qua dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Những doanh nghiệp FDI đóng góp khoảng 30% vào tổng sản lượng công nghiệp, trên 70% kim ngạch xuất khẩu và 25% tổng lượng phát thải khí CO2 hàng năm.

Trong xu thế phải chuyển đổi sang các quy trình sản xuất sạch hơn hoặc chịu rủi ro, để vốn đầu đầu tư rơi vào tay các nền kinh tế đã chuyển đổi; nhiều nước đang tính đến khả năng tăng thuế đối với hàng hóa và dịch vụ gây ô nhiễm bằng cách nâng giá các-bon. Điều này ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các mặt hàng xuất khẩu sang các nước phát triển, nhưng cũng mở ra cơ hội để xuất khẩu những mặt hàng sản xuất sạch hơn.

Phân tích tác động thỏa thuận xanh của cộng đông châu Âu (EU), bao gồm cả kế hoạch triển khai cơ chế điều chỉnh biên giới các-bon (CBAM) cho thấy, những tác động tiêu cực đối với Việt Nam ở mức hạn chế bởi phạm vi bao phủ của CBAM đang còn hạn hẹp; chỉ khoảng 4% sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam sang EU-27 là những mặt hàng có cường độ phát thải cao; khả năng xuất khẩu mặt hàng thâm dụng ít carbon như sản phẩm công nghiệp nhẹ, máy tính, điện tử và một số ngành vận tải… còn nhiều, cơ hội để thâm nhập sâu hơn nữa vào chuỗi giá trị toàn cầu của Viêt Nam đang còn mở rộng.

Nghiên cứu thương mại hóa sản phẩm năng lượng tái tạo cũng cho thấy, Việt Nam còn nhiều khả năng tăng trưởng. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa môi trường từ 18,1 triệu USD năm 2002 đã tăng lên 6,5 tỷ USD vào năm 2020; tương tự, kim ngạch xuất khẩu năng lượng tái tạo cũng từ 3,5 triệu USD năm 2002 tăng lên 5,1 tỷ USD trong năm 2020, bằng 50% so với tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa môi trường tính từ năm 2002 đến 2020. Cơ chế điều chỉnh biên giới các-bon (CBAM) của thỏa thuận xanh tạo cơ hội cho sản phẩm có cường độ phát thải các- bon thấp như máy tính, thiết bị điện tử và quang học…. Thực chất, khi CBAM được triển khai, sản lượng máy tính và hàng điện tử của Việt Nam được dự báo sẽ tăng 0,6% so với trước khi có thỏa thuận này.

Xanh hóa các mặt hàng xuất khẩu truyền thống là yếu tố cần được cân nhắc trên những lĩnh vực có thể tiết kiệm năng lượng đáng kể như: (i) dệt, may mặc và giày da; (ii) chế biến thực phẩm và kinh doanh nông nghiệp, đặc biệt là thực phẩm đồ uống, lĩnh vực đã đóng góp 8% vào GDP bình quân hàng năm, và (iii) ngành hóa chất, ximăng, vật liệu xây dựng, có thể góp phần tiết kiệm tới 30% năng lượng từ lưới điện.

Các hiệp định thương mại tự do Việt Nam-EU và Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) hàm chứa những cam kết về môi trường theo thông lệ quốc tế đối với tất cả các mặt hàng xuất khẩu. Trên cơ sở này,Việt Nam có thể hình thành thương hiệu xanh nhằm tạo sự khác biệt với các quốc gia xuất khẩu khác và có thể gây dựng được sự trung thành với thương hiệu để quảng bá các sản phẩm môi trường. Các hiệp định thương mại tự do tạo cơ hội mới về giao thương hàng hóa xanh; cơ chế điều chỉnh biên giới các-bon theo thỏa thuận xanh EU còn tạo cơ hội rộng mở cho những sản phẩm có cường độ phát thải các-bon thấp như máy tính, thiết bị điện tử và quang học của Việt Nam,

Cũng như cải thiện chất lượng sản phẩm; tiếp tục tăng cường cơ sở hạ tầng tiêu chuẩn và chất lượng hàng hóa và dịch vụ là việc làm cần thiết. Thông qua hàng loạt cải cách trong nước,Việt Nam đang xây dựng năng lực sản xuất các mặt hàng môi trường phục vụ xuất khẩu. Nắm bắt cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do để thúc đẩy sản xuất bền vững đối với tất cả các sản phẩm có thể giúp Việt Nam xây dựng và hình thành thương hiệu xanh nhằm tạo sự khác biệt với các quốc gia xuất khẩu khác. Ngoài ra, cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do cũng là cách để quảng bá sản phẩm môi trường, bao gồm cả phát triển năng lượng tái tạo nhằm gia tăng cơ hội thu hút dòng vốn FDI hoặc chuyển giao công nghệ mới cho các doanh nghiệp Việt Nam.

Sử dụng chính sách thương mại thúc đẩy hoạt động giảm nhẹ và thích ứng với BĐKH là cách tạo thuận lợi cho việc tiếp cận các dịch vụ và công nghệ; khung chính sách pháp lý bao gồm nhiều biện pháp phi thuế quan, có thể gây hạn chế cho thương mại hàng hóa. nên cần được theo dõi sát sao với phương châm tinh giản và giảm chi phí tuân thủ.

Thay cho lơì kết

Là quốc gia xả thải khí các-bon ngày càng nhiều và phải chứng kiến những tác động của BĐKH đến năng suất và sản lượng của các ngành hàng xuất khẩu trong công nghiệp chế biến, chế tạo, nông nghiệp và dịch vụ vận tải; đặc biệt là những hoạt động kinh tế tập trung ở các vùng thấp ven biển. Việt Nam đã quan tâm đầu tư vào hạ tầng chống chịu BĐKH và coi đó là là những phương án đem lại hiệu quả kinh tế.  

Chính sách thương mại có thể giúp tạo thuận lợi theo hướng cả giảm nhẹ và thích ứng. Giảm thuế quan đối với hàng hóa công nghệ và tự do hóa chính sách quản lý là cách tạo điều kiện tiếp cận dịch vụ và công nghệ số trong nông nghiệp đồng thời với hỗ trợ đổi mới sáng tạo để nâng cao sản lượng và giảm khả năng chuyển đổi sử dụng đất theo hướng bất lợi.

Chính sách thúc đẩy thương mại hàng hóa và dịch vụ môi trường cần được bổ sung bằng các hoạt động tăng cường năng lực sản xuất, nâng cao giá trị gia tăng trong nước cho hàng hóa môi trường và hội nhập với các chuỗi giá trị của mạng lưới sản xuất trong khu vực.

Việt Nam đã nổi lên và trở thành một trong những ứng cử viên hàng đầu về địa chỉ dịch chuyển sản xuất. Nắm bắt cơ hội tham gia các hiệp định thương mại tự do và chuỗi giá trị toàn cầu nhằm thúc đẩy tăng trưởng xanh trong tất cả các sản phẩm xuất khẩu là việc làm cần thiết để gia tăng sản phẩm và dịch vụ môi trường cũng như phát triển năng lượng tái tạo.

Tham gia giao thương sản phẩm môi trường thể hiện qua năng lực cạnh tranh sẽ nâng cao cơ hội thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp. Đây là nội dung cần thiết để đẩy mạnh hội nhập vào chuỗi giá trị toàn cầu của nền kinh tế nước ta. Hy vọng, những vấn đề gợi ra sẽ được các nhà hoach định chính sách quan tâm xem xét./.

TS. Lê Thành Ý - ThS. Vương Xuân Nguyên
Bạn đang đọc bài viết "Xanh hóa: Giải pháp tăng trưởng bền vững trong biến đổi khí hậu" tại chuyên mục Kinh tế Nông nghiệp. Hotline: 0846460404 - Liên hệ Quảng cáo: 0912563309