1. Trang trại và nông dân
1.1 Trang trại là tổ chức kinh doanh nông nghiệp chủ yếu thực hiện các khâu sản xuất mang tỉnh sinh học, như gieo trồng, sinh sản, chăm sóc và thu hoạch nông phẩm của các ngành trồng trọt, nuôi trồng thủy hải sản, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Tính chất sinh học của sản xuất nông nghiệp được thể hiện ở chỗ nông phẩm thu được là kết quả của quá trình sinh sản, phát triển theo quy luật tự nhiên của cây trồng và vật nuôi, dưới sự tác động đúng lúc, đúng cách của con người. Trang trại là tế bào, là đơn vị nhỏ nhất hợp thành nền nông nghiệp. Đặc tính căn bản của một tổ chức kinh doanh nói chung và trang trại nói riêng là tính tự chủ, tự chịu tránh nhiệm, "lời ăn lỗ chịu". Tính tự chủ của trang trại thể hiện bằng quyền quyết định sản xuất những loại nông sản nào, số lượng bao nhiêu, bán cho ai, với giá nào, mua nguồn lực đầu vào (giống, phân bón, thức ăn chăn nuôi, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y) của ai với giá bao nhiêu. Trang trại là đơn vị kinh doanh duy nhất có quyền tự chủ. Không một tổ chức nào có quyền áp đặt hay quyết định thay cho trang trại về các nội dung nói trên.
Trong nền kinh tế thị trường, cũng như các tổ chức kinh doanh khác trong công nghiệp và dịch vụ, trang trại cũng gồm nhiều loại khác nhau.
a) Kinh tế nông hộ: Kinh tế nông hộ là trang trại gia đình, theo đó chủ hộ và các thành viên trong gia đình chủ yếu sử dụng tiền vốn, sức lao động của mình, để thực hiện việc quản lý và sản xuất diễn ra trên đồng ruộng, vườn cây, ao nuôi trồng, chuồng trại chăn nuôi: thu nhập của họ trực tiếp phụ thuộc vào kết quả cuối cùng của quá trình sản xuất nông phẩm. Ruộng đất có thể thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của nông hộ. Vì thế chủ hộ và các thành viên trong gia đình có trách nhiệm rất cao trong việc thực hiện đúng lúc, đúng cách các khâu canh tác và nuôi trồng. Mặt khác, do quy mô sản xuất của trang trại gia đình phù hợp với khả năng quản lý của chủ hộ và các thành viên, nên trang trại gia đình có ưu thế hơn các loại trang trại khác trong việc tác động đúng lúc, đúng cách (nhất thì nhì thục) theo quy luật phát triển tự nhiên của cây trồng, vật nuôi, nhằm đạt năng suất và chất lượng nòng phẩm cao nhất với giá thành thấp nhất. Trang trại gia đình có ưu thế tuyệt đối mà các loại trang trại khác không có. Đó là khi gặp tình huống bất lợi về thời tiết và thị trường, khiến cho giá bán nông sản bằng với giá thành sản xuất thì trang trại gia đình vẫn có thu nhập theo cơ chế “lấy công làm lãi đo sử dụng sức lao động của chính mình. Còn các trang trại khác thì lỗ vốn do sử dụng sức lao động làm thuê.
b) Trang trại cá nhân: là doanh nghiệp cá nhân kinh doanh nông nghiệp (luật Việt Nam gọi nhầm là doanh nghiệp tư nhân). Đặc điểm của trang trại này là do một cả nhân làm chủ thực hiện việc quản lý kinh doanh và thuê mướn sức lao động để thực hiện các khâu sản xuất mang tính sinh học. Chủ trang trại có trách nhiệm cao trong quản lý kinh doanh, nên nếu quy mô trang trại vừa tầm hạn (khả năng) quản lý của chủ trang trại thì có thể kiểm soát và buộc tất cả người lao động làm thuê thực hiện đúng lúc đúng cách các khâu sản xuất diễn ra trên đồng ruộng, vuôn cây, ao nuôi, chuồng trại. Khi đó trang trại cá nhân cũng có thể đạt được năng suất và chất lượng nông sản cao, giá thành thấp như trang trại gia đình.
c) Trang trại hợp danh: Là công ty hợp danh kinh doanh nông nghiệp. Quản lý kinh doanh của loại trang trại này cũng giống như trang trại cá nhân. Vì trong trang trại hợp danh chỉ có 1 người có quyền quản lý và chịu trách nhiệm vô hạn như trang trại cá nhận về kết quả kinh doanh. Các thành viên khác của trang trại hợp danh không có quyền quản lý, nên chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong khuôn khổ phần vốn của mình trong trang trại và được chia cổ tức nếu kinh doanh có lãi.
d) Trang trại nhà nước, trang trại trách nhiệm hữu hạn và trang trại cổ phần là doanh nghiệp nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần kinh doanh nông nghiệp. Các loại trang trại này đều thuê người lao động quản lý và người lao động sản xuất trực tiếp, nên trách nhiệm của họ không cao, khó có thể thực hiện đúng lúc, đúng cách các khâu sản xuất mang tính sinh học. Vì vậy hiệu quả kinh tế của các loại trang trại này thường không cao, thậm chí thua lỗ.
1.2 Nông dân, họ là ai?
Không phải ai làm việc và sống bằng nghề nông đều là nông dân. Các chủ trang trại cá nhân, hợp danh, trách nhiệm hữu hạn và cổ phần là các nhà tư sản, nhà đầu tư kinh doanh nông nghiệp. Người lao động quản lý làm thuê là viên chức công trong trang trại nhà nước và là viên chức tư trong các trang trại hữu hạn và cổ phần; còn người lao động trực tiếp trong các trang trại này là công nhân nông nghiệp. Chỉ có người chủ và các thành viên trong trang trại gia đình mới là nông dân. Do những ưu việt của mình nên ở các nước phát triển như Âu-Mỹ, các trang trại gia đình vẫn là lực lượng sản xuất chủ yếu làm ra phần lớn nông phẩm cung cấp cho xã hội. Vì vậy, nông dân là lực lượng lao động chủ yếu của nền nông nghiệp. Họ phải là những nhà nông chuyên nghiệp, giỏi nghề nông, sống bằng nghề nông với mức sống ngày càng cao như những người trong tầng lớp trung lưu của xã hội hiện đại.
2. Bản lĩnh, kiến thức và kỹ năng cần có của người nông dân chuyên nghiệp
Nhờ tích tụ ruộng đất, áp dụng công nghệ cao và nền kinh tế số, nhờ phát triển các dịch vụ nông nghiệp ở đâu vào, đầu ra và ngay cả trong quá trình sản xuất mang tính sinh học, quy mô kinh doanh của trang trại gia đình ngày càng lớn, có thể lên tới hàng ngàn hecta canh tác, nuôi trồng thuỷ hải sản, hàng vạn đầu con gia súc, gia cầm, nhưng các khâu sản xuất mang tỉnh sinh học vẫn được kiểm soát tốt, thực hiện đúng lúc, đúng cách, với năng suất lao động rất cao. Nhờ đó, giá thành sản xuất nông phẩm hạ xuống mức thấp nhất, nhưng năng suất và chất lượng nông phẩm vẫn ngày càng cao, đạt các tiêu chuẩn của thị trường trong và ngoài nước, hiệu quả kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường của nền nông nghiệp ngày càng lớn và ổn định, người nông dân chuyên nghiệp luôn phải thích ứng với nền kinh tế toàn cầu hoá, cạnh tranh ngày càng quyết liệt. Vì vậy, người nông dân chuyên nghiệp phải có bản lĩnh, kiến thức và kỹ năng tương thích với nền kinh tế thị trường hiện đại, được thể hiện qua những nội dung dưới đây:
- Người nông dân chuyên nghiệp phải là người biết chấp nhận rủi ro trong kinh doanh, "thua keo này bày keo khác".
- Người nông dân chuyên nghiệp phải khắc phục triệt để tính tuỳ tiện vốn có của người tiểu nông trong quản lý và sản xuất. Tính tùy tiện là một nhược điểm cố hữu của kinh tế nông hộ với quy mô nhỏ bé, tỉ suất hàng hoá thấp. Người nông dân chuyên nghiệp phải thực hiện nghiêm túc, đầy đủ quy trình công nghệ trong quản lý và sản xuất để bảo đảm sự tác động đúng lúc, đúng cách của con người đối với cây trồng, vật nuôi.
- Giữ gìn CHỮ TÍN trong mọi cam kết với các đối tác trong sản xuất và tiêu thụ nông phẩm. Nên nông nghiệp hiện đại coi mỗi trang trại là một khâu trong chuỗi giá trị ngành hàng, kết nối với thị trường ở cả đầu ra và đầu vào của quá trình sản xuất. Thậm chí, trang trại gia đình được coi là đơn vị sản xuất gia công cho các doanh nghiệp chế biến và tiêu thụ nông sản. Trang trại kinh doanh nhiều mặt hàng nông sản với quy mô sản xuất lớn thì sự cố kết với các đối tác ngày càng chặt chẽ, tuy bình đẳng nhưng lệ thuộc vào nhau. Sự đứt gẫy trong bất kỳ khâu nào của chuỗi giá trị do sự thất tín gây ra đều mang lại hậu quả lớn cho các chủ thể tham gia chuỗi. Giám chấp nhận rủi ro, giữ gìn chữ tín và khắc phục triệt để tính tuỳ tiện trong quản lý và sản xuất là đặc tính quan trọng đầu tiên cần có của người nông dân chuyên nghiệp.
- Người nông dân chuyên nghiệp phải biết ra quyết định đúng lúc, đúng cách. Bản chất của lao động quản lý là một chuỗi ra các quyết định trong quá trình kinh doanh. Người nông dân với tư cách là chủ trang trại gia đình phải biết ra quyết định đúng lúc và kịp thời trong mỗi tình huống kinh doanh cụ thể.
- Biết xác định cơ cấu và quy mô sản xuất hợp lý của trang trại. Căn cứ vào nhu cầu của thị trường tiêu thụ, điều kiện sẵn có của trang trại như thổ nhưỡng, khí hậu, cơ sở hạ tầng giao thông, thuỷ lợi, khả năng vốn, kỹ năng lao động của các thành viên, mối liên kết với các đối tác, chủ trang trại phải xác định sản xuất những mặt hàng nông sản nào với quy mô bao nhiêu để mang lại hiệu quả kinh tế cao mà vẫn bảo vệ được môi trường sinh thái. Sản xuất chuyên môn hóa qua cao một loại nông sản nào đó thì dễ dàng trong cả quản lý và kỹ thuật sản xuất, nhưng rủi ro cao và không tận dụng hết các yếu tố sản xuất của trang trại. Sản xuất đa ngành, nhất là theo mô hình VAC (Vườn, Ao, Chuồng) có thể tận dụng tối đa các yếu tố sản xuất, và áp dụng kinh tế tuần hoàn, giảm thiểu rủi ro, nhưng gặp khó khăn trong quản lý và sản xuất, phải liên kết với nhiều đối tác cung ứng dịch vụ đầu vào - đầu ra. Nhà nông chuyên nghiệp phải có khả năng xác định cơ cấu và quy mô kinh doanh hợp lý của trang trại.
- Nhà nông chuyên nghiệp phải biết lập kế hoạch kinh doanh hằng vụ, hằng năm và dài hạn, hạch toán được chi phí sản xuất, giá thành và lời lỗ của từng mặt hàng nông phẩm.
- Nhà nông chuyên nghiệp phải biết vận động thành lập và quản lý hợp tác xã của mình để giảm giá dịch vụ đầu vào và nâng cao giá tiêu thụ nông sản, tăng sức mạnh mả cả với các đối tác của trang trại. Chủ trang trại gia đình phải biết giám sát, buộc giám đốc và bộ máy quản lý của hợp tác xã thực hiện đúng và hiệu quả các nghị quyết của đại hội và hội đồng quản trị hợp tác xã.
- Người nông dân chuyện nghiệp phải biết kiểm soát dòng tiền vào, ra của trang trại, bảo đảm cân đối vốn trong quá trình kinh doanh.
- Nhà nông chuyên nghiệp phải chủ động liên kết với các doanh nghiệp cung ứng đầu vào, đầu ra cho trang trại, đặc biệt là với các doanh nghiệp mua, chế biến, tiêu thụ sản phẩm của trang trại. Nhà nông phải biết ký kết hợp đồng với hợp tác xã hoặc thông qua hợp tác xã ký kết hợp đồng kinh tế với các đối tác trong chuỗi giá trị của mỗi loại nông sản do trang trại làm ra.
- Nhà nông chuyên nghiệp phải có khả năng ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và sản xuất, phải biết sử dụng mạng Internet để thu thập thông tin thị trường, công nghệ sản xuất mới, năng lực của các đối tác, thiết lập được kênh tiêu thụ nông sản trực tuyến, biết sửdụng điện thoại thông minh trong giao dịch với các đối tác, điều khiển từ xa các thiết bị thông minh dùng trong sản xuất và quản lý (nếu có).
- Người nông dân chuyên nghiệp phải biết thực hiện nghiêm túc sản xuất theo GAP, trước hết là Vietgap và các loại GAP khác của các thị trường tiêu thụ nông sản, bảo đảm truy xuất được nguồn gốc sản phẩm.
- Người nông dân chuyên nghiệp phải am tường kỹ thuật sản xuất các loại nông sản trong cơ cấu sản xuất của trang trại, biết sử dụng công cụ, máy móc thông minh trong sản xuất và quản lý.
3. Giải pháp xây dựng đội ngũ nông dân chuyên nghiệp
Không còn cách nào khác là phải đào tạo một đội ngũ "thanh nông tri điền" thay thế cho “lão nông trì điền" theo kiểu cha truyền con nối. Nhà nước cần có chính sách đầu tư đào tạo miễn phí cho con em nông dân có trình độ học vấn tối thiểu là tốt nghiệp trung học cơ sở (lớp 9/12), tốt nhất là tốt nghiệp trung học phổ thông (lớp 12/12), bằng việc giao trách nhiệm và cấp kính phí cho các cơ sở trong hệ thống đào tạo các ngành nghề nông nghiệp (đại học và cao đẳng nghề) để mở các khoá đào tạo nông dân trẻ. Khoá học tối thiểu là 18 tháng đối với sinh viên đã tốt nghiệp phổ thông và 24 tháng với sinh viên tốt nghiệp trung học cơ sở. Phải coi chính sách đầu tư đào tạo đội ngũ nông dân chuyên nghiệp là đầu tư dài hạn cho hiện đại hoá nông nghiệp, là một quốc sách quan trọng để hiện đại hoá nông nghiệp... Nông dân chuyên nghiệp chính là doanh nhân của nền nông nghiệp nước nhà./.