Ở đây, tôi bắt đầu được tiếp xúc với nhà học giả uyên bác, vị Giáo sư Sử học khả kính Đào Duy Anh - người mà cả thế hệ cha anh và thế hệ chúng tôi vô cùng ngưỡng mộ. (Bởi vì từ trước năm 1945, những người trong gia đình tôi có chút ít học hành, sống ở nơi thôn ổ xứ Nghệ đã biết đến tên tuổi, đã ít nhiều tiếp xúc với những công trình trứ thuật của ông như các tập sách do Quan Hải tùng thư xuất bản, các bộ sách Hán Việt từ điển, Pháp Việt từ điển, Việt Nam văn hóa sử cương, Trung Hoa sử cương, Khảo luận về Kim Vân Kiều, Khổng giáo phê bình tiểu luận, v.v…). Thật may mắn cho tôi, từ đó được sống, làm việc, học tập tiến tu trong môi trường văn hóa, trong lò “đào tạo nhân tài” danh giá này.
Sinh hoạt trong khoa Sử, gần gũi các bậc “đại danh sư”, các bạn trẻ “thông minh tuấn tú”, tôi cũng được ảnh hưởng tốt, dần dần trưởng thành. Và cũng chính nơi đây - Khoa Sử, Đại học Tổng hợp - tôi được chứng kiến và ghi nhận công lao tổ chức, quản lí và đào tạo của Giáo sư Đào Duy Anh những năm 1956 đến 1960. Tôi xin kể lại dưới đây một số “Kí ức Khoa học” (còn sơ sài và thiếu sót) được ghi đậm trong cảm thức của bản thân trải qua ngót năm mươi năm ngày tháng.
*
* *
Tôi nhớ vào một ngày đầu tháng 12 năm 1957, khi Giáo sư Tạ Quang Bửu (khi đó là Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước, kiêm Giám đốc trường Đại học Bách khoa) đến thăm và làm việc với số đông cán bộ giảng dạy Đại học Tổng hợp, trong cuộc họp với cán bộ khoa Sử, Giáo sư Trần Văn Giàu có hỏi Giáo sư Tạ Quang Bửu:
- Thế nào là “người có trình độ Đại học”?
Giáo sư Tạ Quang Bửu đáp gọn một câu:
- Người có trình độ Đại học là người đã học tới mức có sức tự học… và Giáo sư chỉ tay về phía Giáo sư Đào Duy Anh, nói tiếp:
- Có phải thế không anh Đào, chính anh và các anh (giáo sư ở đây) đang rèn cặp cho tất cả các bạn trẻ, các “tập sự trợ lí” của các anh ở đây chóng đạt tới mức đó.
Tôi nhớ mãi câu nói đó của Giáo sư Tạ Quang Bửu và tôi cũng không bao giờ quên thái độ trọng thị của Giáo sư đối với Giáo sư Đào Duy Anh. Sự thành đạt của Giáo sư Đào và công lao đào tạo nhân tài của Giáo sư Đào đã được “người đương thời” và được lịch sử ghi nhận.
1. Đối với việc đào tạo cán bộ giảng dạy. Dưới sự chỉ bảo trực tiếp của Giáo sư Đào, một số cán bộ giảng dạy trẻ tuổi đã sớm trở thành những cán bộ đầu đàn của nền sử học cách mạng. Đó là các anh Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn (ở Sử cổ trung đại) và Đinh Xuân Lâm (Sử cận hiện đại) mà ba, bốn thập kỉ nay đã được coi là “tứ trụ triều đình” khoa Sử, Đại học Tổng hợp Hà Nội.
Do sự chỉ đạo đúng hướng và quản lí sát sao của Giáo sư Đào cộng với sự nỗ lực (và tài trí cá nhân), mà các anh - chỉ sau vài năm làm cán bộ giảng dạy - đã có những công trình xuất bản (trước năm 1960) được công luận đánh giá tốt, như:
Phan Huy Lê:
- Chế độ ruộng đất và kinh tế nông nghiệp thời Lê sơ. Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội, 1959.
- Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam - Tập 2. Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1960.
Trần Quốc Vượng:
- Chế độ cộng sản nguyên thủy Việt Nam (viết chung). Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1960.
- Sơ yếu khảo cổ học nguyên thủy Việt Nam (viết chung). Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1960.
- Việt sử lược (dịch từ chữ Hán). Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội, 1960.
Hà Văn Tấn:
- Lịch sử chế độ cộng sản nguyên thủy (viết chung). Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1960.
- Sơ yếu khảo cổ học nguyên thủy Việt Nam (viết chung). Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1960.
- Dư địa chí - Giới thiệu, hiệu đính và chú thích. Nxb Sử học, Hà Nội, 1960.
Vương Hoàng Tuyên:
- Tình hình công thương nghiệp Việt Nam thời Lê mạt. Nxb Văn sử địa, Hà Nội, 1959.
v.v…
2. Đối với việc tập tích tư liệu sử học. Giáo sư Đào Duy Anh thật có công lớn trong việc sưu tầm tập hợp tư liệu lịch sử cho khoa Sử và cho ngành Sử học Việt Nam để giúp cho nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu Sử. Không kể thời kì trước Cách mạng tháng Tám 1945, Giáo sư đã có một “thư viện” lớn có tàng chứa nhiều sử sách Đông Tây kim cổ (mà bị cuộc chiến tranh chống Pháp làm cho thất tán hết), đến sau ngày hòa bình lập lại sau năm 1954, đặc biệt là khi Giáo sư về giảng dạy ở trường Đại học Sư phạm và Đại học Tổng hợp Hà Nội (từ 1956), đã cất công tìm kiếm “tư liệu lịch sử” từ nhiều nguồn, rồi tập trung tại Thư viện khoa Văn - Sử của trường, như:
- Trong chuyến đi “tham quan nghiệp vụ” của Đoàn Giáo sư Việt Nam ở Trung Quốc (tháng 5, 6 và 7-1956) tại các trường Đại học Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu…, riêng Giáo sư Đào đã mang về một khối lượng sách Văn - Sử vô cùng quí giá (do các trường đại học ở Trung Quốc tặng), một “vốn liếng cơ bản” cho giới sử học Việt Nam khai thác. Đó là các bộ sách sử nổi tiếng như: Nhị thập tứ sử, Tự trị thông giám, một số phần trong Tứ khố toàn thư… Các bộ Trung Quốc thông sử của các tác giả Phạm Văn Lan, Lã Chấn Vũ v.v… Trung Quốc triết học sử của Hầu Ngoại Lư… Lại có cả những cuốn sách của Quách Mạt Nhược như Văn sử luận tùng, Thanh đồng thời đại… của Lương Khải Siêu như Ấm Băng văn tập, hợp tập… Ngoài ra Giáo sư cũng còn được Viện Khoa học (xã hội) Trung Quốc tặng các bộ do Lịch sử tư liệu tùng thư xuất bản như: Trung - Pháp chiến tranh (bảy tập), Niệm quân (hai tập), Tân Hợi cách mạng (mười tập) v.v… Thật là một khối lượng hết sức đồ sộ, kể có mấy trăm ki lô sách, xếp chất đầy các tủ sách của thư viện, kể cả nhiều nóc tủ lúc đó đặt ở văn phòng khoa.
Chính nhờ có khối lượng sách sử Trung Quốc phong phú này, mà sau đó Giáo sư đã chỉ đạo các cụ túc nho (như Phan Duy Tiếp - Đoàn Thăng, Trần Lê Hữu…) đọc và trích dịch được hàng ngàn trang “sử liệu” rút từ Nhị thập tứ sử, những tư liệu có liên quan đến lịch sử cổ trung - cận đại Việt Nam, có những tác phẩm được dịch trọn vẹn như Việt Kiệu thư, Thủy kinh chú… rất thiết cốt đối với việc nghiên cứu các chuyên đề lịch sử và biên soạn các tập giáo trình Lịch sử Việt Nam của các cán bộ giảng dạy ở khoa Sử, Đại học Tổng hợp.
- Các sách sử Việt Nam của các triều đại phong kiến như Đại Việt sử kí toàn thư, Đại Việt thông sử, Quốc triều chính biên toát yếu, v.v… và các tập chuyên sử khác như Dư địa chí, Quân trung từ mệnh tập, Kiến văn tiểu lục, Phủ biên tạp lục…, Sử học bi khảo, Lê quí Kỉ sự, Nghệ An kí, Việt sử lược, v.v… cũng được Giáo sư mượn từ Thư viện Khoa học Xã hội, Thư viện Viện Sử học và cả một số sách sử ở các tủ sách gia đình đem về cho cán bộ giảng dạy và cán bộ phiên dịch của khoa Sử khai thác, trích dịch hoặc dịch toàn văn. Một số cuốn sử vừa kể, sau này lần lượt xuất bản là đều “xuất” tự khoa Sử, đúng hơn - xuất từ sự “chỉ đạo” của Giáo sư Đào khi giáo sư công tác ở khoa Sử và có không ít cuốn được ghi rõ “Người hiệu đính là Giáo sư Đào Duy Anh” (như các cuốn ngày đó được Viện Sử học xuất bản sau năm 1961 như: Lịch triều hiến chương loại chí, Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam thực lục, v.v…) Đây cũng lại là một số lượng không nhỏ các sách lịch sử, được xuất bản và có mang dấu ấn công tích của Giáo sư Đào Duy Anh”!
3. Đối với việc đào tạo những cán bộ biên dịch, nghiên cứu Sử học khác.
Thời gian công tác tại khoa Sử Đại học Tổng hợp, Giáo sư Đào Duy Anh cũng rất quan tâm đào tạo cán bộ ngành Khảo cổ học (như Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng), ngành Dân tộc học (Vương Hoàng Tuyên), vì Giáo sư biết rõ khả năng của các cán bộ của Tổ Cổ sử này có thể tách ra xây dựng hai ngành khoa học mới của nền sử học nước nhà và quả nhiên các cán bộ giảng dạy này đã dần dần chiếm lĩnh trận địa mới và có những thành tựu xuất sắc như ta đã biết.
Rồi nữa, Giáo sư Đào cũng biết sử dụng một số cán bộ phiên dịch Trung văn có ít nhiều vốn Hán Nôm (như Lại Cao Nguyện, Nguyễn Quốc Tuý) cùng với Giáo sư tiến hành chuẩn bị biên soạn cuốn Từ điển Hán Nôm mà Giáo sư hình như đã có dự định từ lâu. Tiếc là “công trình” này chỉ mới thu thập biên chép được khoảng vài ba trăm trang bản thảo, thì Giáo sư lại phải chuyển đi công tác ở cơ quan khác (Viện Sử học), nên bỏ dở… đến nay, tập bản thảo đó, không rõ có còn nữa hay không?
Mặt khác, đối với số cán bộ trẻ phiên dịch Trung văn, trong đó có bản thân tôi, khi về khoa Sử cũng được các giáo sư phụ trách các tổ bộ môn lịch sử Cổ Trung Cận Hiện đại cho phép dự lớp (với tư cách bàng thính) của các giáo sư, có khi là “theo một giáo trình”, có khi là “nghe giảng về một số chuyên đề” về lịch sử Việt Nam hoặc lịch sử thế giới, để học tập thêm, để bổ sung những kiến thức sử học cần thiết. Nhờ cách “đào tạo” và “tự đào tạo” đó, mà trình độ của chúng tôi ngày một nâng cao và cũng nhân đó xác lập được con đường nghiên cứu sử học của mình.
Riêng đối với trường hợp “thành thân” - thành được con người có chút ít thành tựu khoa học như hôm nay - tôi thực sự tri ân sâu sắc đối với sự góp phần tác thành của các giáo sư sử học, đặc biệt là hai Giáo sư Trần Văn Giàu và Giáo sư Đào Duy Anh. Giáo sư Trần có công định hướng, giao đề tài (đi sâu nghiên cứu nhân vật lịch sử Phan Bội Châu); Giáo sư Đào vừa là “thần tượng khoa học”, vừa là “nhà văn hóa lớn” - “nhà nhân bản học xứng danh” (chữ dùng của Tạ Trọng Hiệp) để nhiều thế hệ hướng tới và ngợi ca.
“Sự nghiệp nghiên cứu Phan Bội Châu” của tôi được bắt đầu từ những ngày đến với khoa Sử, nơi có các Giáo sư Đào, Giáo sư Trần luôn động viên khích lệ tôi học tập và làm việc, phấn đấu tiến lên. Tôi nhớ mãi những lời khuyên bảo của Giáo sư Đào, rằng: phải cố gắng nắm vững kiến thức lịch sử, phải trau dồi ngoại ngữ (phải tranh thủ học chữ Hán cổ, văn ngôn ở nơi các vị túc nho Phan Duy Tiếp, Đoàn Thăng, Kiều Hữu Hỷ, Trần Lê Hữu lúc đó cũng công tác ở khoa Sử). Học rồi phải tập dịch ra tiếng Việt… dần dần tôi cũng dịch thành công mấy quyển trong bộ sách Quốc triều chính biên toát yếu, mấy tập Điều trần của Nguyễn Trường Tộ và nhất là hai tác phẩm Việt Nam vong quốc sử và Việt Nam quốc sử khảo của Phan Bội Châu (đã được xuất bản vào những năm 1958-1960). Những bản dịch và bài nghiên cứu đầu tay (nhan đề: Một tác phẩm của Phan Bội Châu - Hậu Trần dật sử hay Trùng Quang tâm sử, đăng trên Tập san Văn Sử Địa số 48, tháng 01-1959) của tôi đều được Giáo sư Đào Duy Anh đọc qua, có lời nhận xét và khuyến miễn.
Từ đó về sau, tôi còn được tiếp xúc, thụ giáo Giáo sư Đào nhiều dịp và lúc nào cũng được Giáo sư quan tâm thăm hỏi với tình thân ái thầy trò rất đỗi cảm động. Hi vọng rồi đây tôi sẽ có thể dành cho thầy những trang “hồi kí” đầy đủ hơn.
(Hà Nội, nhân kỉ niệm “100 năm sinh Giáo sư Đào Duy Anh”, tháng 5 năm 2004)