Hồ sơ mã số F034600020540 là của CCB Nguyễn Kho (có thể là Nguyễn Khó?), còn được biết đến với tên Phạm Xuân Kho (hoặc Phạm Xuân Khó?). Ông sinh năm 1944, quê tại thôn Thanh Kỳ, xã An Thanh, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương, có cha là Phạm Xuân Doãn và mẹ là Phạm Thị Ngân. Nguyễn Kho nhập ngũ ngày 12/4/1963, cấp bậc Hạ sĩ, biên chế thuộc Đại đội 2, Trung đoàn 3, Sư đoàn 324.


Trong cuốn sổ tay của mình, ông Nguyễn Kho đã chép các bài thơ, địa chỉ của bạn bè và người thân ở miền Bắc, các lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những lời đề tặng cho một số bạn bè và một bản tự sự. Tài liệu cũng tiết lộ rằng ông Kho đang cố gắng học tiếng Lào với bảng chữ cái Lào được viết trong cuốn sổ tay, lý do có thể là vì tỉnh Quảng Trị giáp Lào ở phía Tây
Nhiều họ tên người thân, bạn bè được Nguyễn Kho đề cập trong suốt cuốn sổ tay. Ở cuối bài thơ đầu tiên, Kho nhắc đến Nguyễn Thị Thanh (thôn An Thổ, xã Nguyên Giáp, cũng thuộc huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương). Một tên khác được nhắc đến ở cuối bài thơ thứ hai là Lê Thị Minh Tâm (thôn Đồng Tâm, xã Minh Đức). Các tên khác cũng được liệt kê sau đây: Nguyễn Văn Hải, chị Nguyễn Thị Tuyền (thôn Hải An, xã Quang Phục, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương); Nguyễn Trọng Phương, Anh Nguyễn … Thế; Bích Cẩm, Quang Phục ở Tứ Kỳ, Hải Dương; Đoàn Viết Tài, Đoàn Chinh (thôn Cầu Trại, xã Việt Ngọc, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang); Nguyễn Linh (huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam); Nguyễn Thị Ngoan (xóm Đông Sơn, xã Nhậm Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An); Bùi Văn Lập (thôn Lập Lễ, xã Thanh Hồng, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương); Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Thị Triều, Hồ S… Quảng ở xóm Đô Sơn, xã Đại Sơn (hoặc Bắc Sơn), huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An; Nguyễn Thị (hoặc Thương) ở xã Nam Anh (hoặc Nam Cát), huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An; Đinh Thị Hồng, Đinh Thị Phương (xóm 5, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh); Cao Bằng, Nguyễn Thị Tuyết Phương (Trường Trung cấp Nông nghiệp tỉnh Nghệ An, lớp 2, tổ 6).


Những ảnh trên do tác giả cung cấp.
Theo báo cáo Hồ sơ mã số F034600020540 này bị quân đội Mỹ thu giữ vào ngày 23/7/1966, bởi Trung đoàn 111 HAF, trong khu vực của Chiến dịch Hastings (Lam Sơn 289), diễn ra từ ngày 15/7 đến ngày 3/8/1966 tại tỉnh Quảng Trị. Vẫn chưa rõ CCB Nguyễn Kho đã hi sinh, hay còn sống sót qua chiến tranh?
Hồ sơ chứng tích Số 4-2025: CÓ AI BIẾT THÔNG TIN VỀ CCB MANG TÊN ÚY, HOẶC THÂN NHÂN GIA ĐÌNH VÀ ĐỒNG ĐỘI CỦA ÔNG Ở ĐÂU?
Hồ sơ mã số F034600271722 là của một cá nhân tên Uý (không rõ họ). Ông là một cán bộ Quân đội, nhập ngũ ngày 15/02/1954, xuất ngũ ngày 10/01/1960) và tái ngũ ngày 9/4/1965. Ông Úy từng chiến đấu trại chiến trường Lào. Cuốn sổ ghi lại những trang lưu niệm, lời chia tay từ các đồng đội khi ông Uý được xuất ngũ vào tháng 1/1960 để nhận các nhiệm vụ khác. Trong cuốn sổ của mình, ông Uý cũng ghi chép những kiến thức liên quan đến thuế, công tác điều tra dân số, những chặng đường hành quân và các thông tin quân sự khác…
Trong cuốn sổ, có hai bức ảnh thẻ (ở trang 5 và 38 của tài liệu quét) có thể là của hai người lính đồng đội của ông Uý. Một số tên và địa chỉ có thể đọc được của họ như sau (một vài chỗ có thể bị sai chính tả do tài liệu bị mờ): Ma Thị Huấn ở thôn Hương Cầu, xã Thái Sơn (hiện không còn tồn tại?), huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang; Trần Hữu Lĩnh ở thôn Nam Đông, xã Tiên Thành (có thể là Liên Thành vì tên xã Tiên Thành không tồn tại, khả năng khác là xã Tiến Thành nhưng lại xuất hiện từ năm 2009 sau khi được tách ra từ xã Mã Thành?), huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An; Hoàng Tuệ, Đặng Bửu Tuyền và Đặng Hữu Tâm ở xóm Lộc Tiến, xã Thạch Tiến, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh; Nguyễn Tiến Thắng ở thôn Tiêu Thiều (tên thôn không còn tồn tại?), xã Đông Lỗ, huyện Ứng Hoà, tỉnh Hà Đông (nay thuộc thành phố Hà Nội); Đình Văn (rất thân với Uý); Lê Văn ở xóm Tiền Phong, xã Thạch Sơn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh...
Ở phần sau của cuốn sổ, ông Uý đã ghi lại những mốc thời gian quan trọng của mình, bao gồm ngày nhập ngũ (15/02/1954); ngày vào Đảng (14/02/1959), ngày chính thức (12/09/1959); ngày xuất ngũ (10/01/1960) và ngày tái ngũ (9/4/1965). Ông Uý đã tham gia lớp bồi dưỡng cán bộ từ ngày 30/08/1965 đến ngày 10/09/1965, do đồng chí Đào Văn Thanh làm Cục Tổng. Ông nhận quyết định Cán sự Chính trị D ngày 01/09/1965 (số quyết định 1096) và quyết định quân hàm Chuẩn uý ngày 01/09/1965 (số 1071) do đồng chí Thượng tá Chính uỷ Quốc Tuấn ký tên, bắt đầu nhận công tác cơ sở chính trị D6 từ ngày 16/10/1965.
Ông Uý cũng đã chép lại rằng vào ngày 20/01/1966, toàn đơn vị đang hành quân tới một khu rừng ở hạ Lào để vào giải phóng miền Nam. Tài liệu cũng đề cập đến C7 và C8, C10, cùng việc vượt qua một cây cầu có chiều rộng 1 mét và dài 60 mét, được xây dựng bởi các Kỹ sư Quân đội Việt Nam trong khu vực U/I.
Theo báo cáo, Hồ sơ mã số F034600271722 này đã bị quân đội Mỹ thu giữ vào ngày 31/10/1966, bởi Sư đoàn Bộ binh 25, tại khu vực chưa rõ (?) 782618. Hiện vẫn chưa thể xác định liệu ông Uý có sống sót qua cuộc chiến, hay đã hi sinh trước khi cuốn sổ bị thu giữ?
Ảnh đính kèm: Bút tích (có thể là Di bút) những trang lưu niệm có trong sổ tay của cựu chiến binh mang tên Úy và trong sổ tay của cựu chiến binh Nguyễn Kho.
Hà Nội, ngày 4/6/2025
TTNL