2. NHỮNG TỒN TẠI, HẠN CHẾ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
Như đã phân tích trong bài Phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 - qua thực tiễn ở vùng Đông Nam bộ (phần 1), Mặc dù có nhiều thành tựu và kết quả rất tốt nhưng chương trình NTM vẫn còn tồn tại một số hạn chế, cụ thể như sau:
2.1. Phát triển nông thôn chưa gắn kết chặt chẽ với đô thị, chênh lệch thu nhập giữa nông thôn thành thị ngày càng cao, sinh kế cư dân nông thôn thiếu bền vững
Phát triển nông thôn thiếu kết nối, thiếu sự hỗ trợ của phát triển công nghiệp - đô thị. Ngay kể cả các xã, huyện ven đô cũng rất lúng túng khi xây dựng NTM do chưa rõ định hướng kết nối với phát triển đô thị. Khoảng cách tương đối về thu nhập giữa nông thôn và đô thị dù được thu hẹp từ 2,0 lần năm 2010 xuống còn 1,9 lần năm 2018, nhưng khoảng cách tuyệt đối ngày càng tăng lên từ 12,7 triệu/người/năm 2010 lên 31,6 triệu đồng/người/năm 2018. Thu nhập và đời sống của người dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa còn gặp nhiều khó khăn, chậm được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo còn cao, sinh kế thiếu bền vững trước những rủi ro thiên tai, dịch bệnh, biến động giá cả thị trường… Thu nhập từ nông nghiệp ngày càng co hẹp[1], trong khi đó thu nhập phi nông nghiệp thiếu ổn định. Theo khảo sát của IPSARD năm 2019, các xã đạt chuẩn NTM có thu nhập bình quân đầu người cao hơn nhưng thu nhập từ nông nghiệp cũng chỉ tương đương so với xã chưa đạt chuẩn NTM (ở mức 7,7 triệu đồng/người/năm). Thu nhập nông nghiệp thấp trong khi khả năng tạo việc làm ổn định tại nông thôn hạn chế nên lao động có xu hướng rời bỏ nông thôn đi làm ăn tại các đô thị ngày càng nhiều, gây áp lực lớn đối với các đô thị. Khoảng 50% khác biệt về thu nhập giữa xã đạt chuẩn NTM và xã chưa đạt chuẩn chủ yếu là nhờ nguồn tiền từ các lao động di cư hoặc người thân gửi về[2]. Tỷ lệ hộ nông thôn nhận hỗ trợ từ con cái tại các xã đạt chuẩn NTM là 30,1%, trong khi tại các xã chưa đạt chuẩn chỉ là 25,2%. Tuy nhiên, nguồn hỗ trợ này cũng không ổn định vì đa số lao động rời khỏi nông thôn hoạt động dưới dạng “không chính thức”, chưa được bảo vệ đầy đủ quyền lợi và thiếu ổn định về tương lai.
Phân hóa nông thôn tiến triển mạnh, chênh lệch thu nhập giữa 20% nhóm hộ giàu nhất và 20% nhóm hộ nghèo nhất trong nông thôn tăng mạnh, từ 7,5 lần năm 2010 lên 8,6 lần năm 2018. Tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn cao gấp 4 lần đô thị.
Một điều đáng lưu ý là với mức độ rủi ro về thị trường, thiên tai ngày càng tăng nhưng sự hỗ trợ của các chương trình an sinh xã hội và các tổ chức đoàn thể cho hộ nông thôn dù có tăng lên nhưng vẫn còn hạn chế. Báo cáo của Viện Quản lý Kinh tế Trung ương (năm 2016) cho thấy, có tới 30% số hộ nông thôn cho biết họ gặp các cú sốc trong sản xuất và cuộc sống. Khảo sát ho thấy tỷ lệ hộ nông thôn nhận hỗ trợ từ các chương trình an sinh xã hội của Chính phủ tăng từ 38,9% năm 2010 lên 48,1% năm 2018; tại các xã đạt chuẩn NTM thì tỷ lệ này chỉ là 44,8% năm 2018, thấp hơn so với xã chưa đạt chuẩn NTM là 50,9%. Tỷ lệ hộ nông thôn nhận hỗ trợ từ các tổ chức đoàn thể (như Hội Phụ nữ, Hội Chữ thập đỏ…) tăng nhẹ từ mức 4,2% năm 2010 lên 4,8% năm 2018; tại các xã đạt chuẩn NTM tỷ lệ này chỉ ở mức 3,2% năm 2018, thấp hơn so với xã chưa đạt chuẩn ở mức 6,2%. Điều đó có nghĩa 50% hộ nông thôn phải tự bảo hiểm đối với các rủi ro từ nguồn thu nhập của chính họ, hoặc phải trông cậy vào người thân và bạn bè. Đây cũng là lý do giải thích vì sao hộ gia đình tại các xã đạt chuẩn NTM có thu nhập và khả năng phục hồi với các cú sốc tốt hơn so với hộ gia đình tại các xã chưa đạt chuẩn NTM do họ có thể nhờ cậy nhiều hơn từ nguồn hỗ trợ của con cái (30,1% so với 25,2%), từ người thân/bạn bè (37,2% so với 33%) và vay tiền bạn bè (22,9% so với 9,6%). Với xuất phát điểm thấp, thu nhập thấp, cần tập trung nhiều hơn nữa sự hỗ trợ từ các chương trình/dự án của Nhà nước để hỗ trợ cho các xã chưa đạt chuẩn NTM, đặc biệt tại các xã khó khăn hơn là chỉ chú trọng đến các xã có điều kiện để nhanh đạt thành tích về xây dựng NTM.
2.2. Quá trình xây dựng nông thôn mới chưa gắn kết hiệu quả với cơ cấu lại ngành nông nghiệp
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực, ưu tiên cho phát triển hạ tầng trong xây dựng NTM nhưng hạ tầng giao thông, thủy lợi, điện nhiều nơi còn yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn. Một số công trình hạ tầng chưa thực sự được duy tu, bảo dưỡng thường xuyên nên đang xuống cấp. Một số địa phương chạy theo phong trào. Đa số mới chú trọng phát triển hạ tầng, chưa quan tâm đúng mức tới phát triển sản xuất, kinh doanh, xây dựng đời sống văn hóa, nâng cao đời sống của người dân. Khảo sát gần đây cho thấy tỷ lệ hộ gia đình hài lòng với đường giao thông và hệ thống điện, trường học trong xây dựng NTM là trên 80%, thì tỷ lệ này chỉ là dưới 60% đối với hệ thống thủy lợi và chất lượng nhà văn hóa.
Đầu tư xã hội cho nông nghiệp thấp, chỉ khoảng 3 tỷ USD/năm, trong đó 50% là ngân sách nhà nước, chỉ có 16,7% là của doanh nghiệp[3]. Tổ chức sản xuất nông nghiệp chưa có sự thay đổi nhiểu. Năng lực, trình độ mọi mặt của nông dân vẫn còn hạn chế, đa số các chủ thể kinh tế hộ chưa vươn tới tầm của sản xuất hàng hóa lớn, có khả năng cạnh tranh cao. Quy mô hộ sản xuất nông nghiệp còn nhỏ lẻ, phần lớn hộ nông dân có quy mô sử dụng đất nông nghiệp dưới 2ha (trên 70%). Chất lượng lao động nông thôn còn thấp, theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2018 mới chỉ có 14,3% được qua đào tạo (so với 38,0% tại đô thị). Sản xuất quy mô lớn, theo chuỗi giá trị, gắn sản xuất nguyên liệu với bảo quản, chế biến và tiêu thụ chưa trở thành chủ đạo. Số lượng chuỗi giá trị hoàn chỉnh còn hạn chế, thiếu gắn kết giữa doanh nghiệp lớn với doanh nghiệp vừa và nhỏ địa phương và với tổ chức của các hộ nông dân.
Liên kết yếu giữa người sản xuất và doanh nghiệp yếu. Việc hình thành và tái cơ cấu HTX chưa đủ mạnh, nhiều HTX thành lập trước đây qua việc hoàn thành các tiêu chí NTM đều chưa được tổ chức và triển khai theo Luật HTX, chưa thực hiện được bản chất của HTX, hoặc các thành viên tham gia HTX theo hình thức “đánh trống ghi tên”, chưa tổ chức đúng bản chất của HTX, các giám đốc HTX chưa biết mình là ai, từ đó lúng túng trong cách quản trị, sản xuất và kinh doanh.
Ứng dụng công nghệ cao, công nghệ hiện đại vào sản xuất, chế biến bảo quản còn hạn chế, chưa được “đột phá” để nâng cao giá trị gia gia tăng, sức cạnh tranh của sản phẩm, ngành, nhất là trong bối cảnh nước ta hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng hơn. Trình độ công nghệ nhìn chung còn thấp, chưa tạo sức mạnh lan tỏa và thúc đẩy nhanh quá trình thay đổi tập quán canh tác nhỏ lẻ, thiếu liên kết, không chuyên nghiệp. Tuy trình độ ứng dụng KHCN của nông dân đã có những chuyển biến tích cực nhưng sự đóng góp của đầu tư KHCN trong cơ cấu lại ngành nông nghiệp và xây dựng NTM chưa thực sự nổi bật; đầu tư cho KHCN nông nghiệp chưa tương xứng với tiềm năng của nông nghiệp Việt Nam[4].
2.3. Vai trò “chủ thể” của người nông dân chưa được đề cao, trong khi những lực lượng mới cho phát triển nông thôn chưa được phát huy đúng tiềm năng
Vai trò chủ thể của nông dân, sức mạnh chủ động của cộng đồng cơ sở chưa được đề cao. Do chưa làm tốt công tác tuyên truyền vận động nhân dân, chưa quán triệt và thực hiện tốt phương châm “nông dân là chủ thể” nên sự tham gia của quần chúng chưa tích cực, có tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào đầu tư, dẫn dắt của Nhà nước; có nơi lại có biểu hiện lạm dụng đóng góp, lạm quyền của người dân trong thực hiện các nhiệm vụ công cộng. Điều tra năm 2019 của IPSARD cho thấy chỉ có 68,1% số hộ cho biết mình có quyền tham gia ý kiến vào quy hoạch, kế hoạch, đề án NTM của địa phương; chỉ có 55% số hộ cho biết mình có quyền tham gia ý kiến lựa chọn công trình, dự án; 66,9% số hộ cho biết mình có quyền giám sát quá trình thực hiện các dự án NTM… Có những trường hợp người địa phương được phỏng vấn không biết rằng xã mình đã đạt chuẩn NTM.
Kinh tế hộ nhỏ lẻ vẫn chiếm tỷ trọng cao[5] và đang bộc lộ những hạn chế, yếu kém cản trở quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp. Trong khi đó những lực lượng mới cho phát triển nông thôn chưa được phát huy đúng tiềm năng. Sự phát triển của kinh tế gia trại, trang trại còn hạn chế, số lượng ít (chỉ có 31668 trang trại, chiếm gần 0,4% số hộ nông nghiệp), quy mô nhỏ[6] (chỉ tương đương ở mức kinh tế hộ ở các nước khác). Doanh nghiệp chưa được phát huy hết tiềm năng trong phát triển kinh tế nông thôn và xây dựng NTM. Số lượng doanh nghiệp nông nghiệp còn thấp, chỉ chiếm 1,2% tổng số doanh nghiệp trong cả nước. Trong khi đó, có đến 4 triệu hộ kinh doanh cá thể ở nông thôn nhưng chưa sẵn sàng đăng ký để trở thành doanh nghiệp do lo ngại về các thủ tục đăng ký kinh doanh, sự phức tạp của chính sách thuế… Phong trào khởi nghiệp trong thanh niên nông thôn chưa được quan tâm rõ nét. Vẫn còn những e ngại của các cấp quản lý đối với xung đột quyền lợi giữa nông dân với doanh nghiệp nên chưa có chủ trương, chính sách và giải pháp mang tính đột phá để tạo dựng và phát huy đầy đủ xung lực của những lực lượng mới cho phát triển kinh tế nông thôn và xây dựng NTM.
3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP ĐỘT PHÁ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP, NÔNG DÂN, NÔNG THÔN VÙNG ĐÔNG NAM BỘ ĐẾN NĂM 2030, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2045
Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từ 2021-2030, Đảng ta nêu rõ: “Phát triển kết cấu hạ tầng, kinh tế vùng,.. lấy các đô thị làm động lực phát triển vùng và đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới”18. Định hướng cho thấy, để đi lên bền vững các vùng kinh tế cần phát triển hài hòa, hợp lý, kết nối hiệu quả giữa nông thôn với đô thị. Và trong cơ cấu lại nông nghiệp, Đảng cũng nhấn mạnh: kinh tế nông thôn gắn với xây dựng NTM theo hướng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh. Vùng ĐNB là nơi phát triển kinh tế năng động, đến đầu năm 2020, vùng có 311/445 xã đạt chuẩn nông thôn mới (đạt 69,89%, tăng 35,8% so với cuối năm 2015), trong đó, 2 tỉnh Đồng Nai và Bình Dương có 100% xã đạt chuẩn nông thôn mới2. Với tiềm năng và định hướng nêu trên, ĐNB hoàn toàn có thể chuyển sang phát triển nông thôn “thông minh” gắn với các cụm kinh tế nông nghiệp liên hoàn hiện đại (Agricultural cluster - theo lý thuyết của nhà kinh tế nổi tiếng Michael E. Porter về Chiến lược cạnh tranh hiện đại).
3.1. Đề xuất quan điểm, mục tiêu chung XDNTM
3.1.1. Quan điểm
Xây dựng NTM là một quá trình lâu dài, thường xuyên và liên tục, có điểm bắt đầu nhưng không có điểm kết thúc. Xây dựng NTM đảm bảo “Hiệu quả, Toàn diện và Bền vững”[7]. Chương trình MTQG xây dựng NTM giai đoạn sau năm 2021 cần trở thành một chương trình phát triển nông thôn toàn diện, đáp ứng các mục tiêu của phát triển bền vững ở tất cả các cấp (tỉnh, huyện, xã và thôn, bản).
Những kết quả tích cực của giai đoạn 2010-2020 cần tiếp tục được phát huy và nhân rộng trên toàn quốc, khắc phục triệt để những yếu kém còn tồn tại, thu hẹp khoảng cách giữa các vùng miền, giữa nông thôn và đô thị, kết nối đồng bộ nông thôn - đô thị và kết nối liên vùng, phát triển hài hòa kinh tế, xã hội và môi trường nông thôn.
3.1.2. Mục tiêu chung
Xây dựng NTM để đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn giàu có và thịnh vượng, tiệm cận với khu vực đô thị; lồng ghép quá trình xây dựng NTM nâng cao gắn với việc hình thành “nông thôn thông minh”.
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn đồng bộ, hiện đại và kết nối chặt chẽ với quá trình đô thị hóa; Kinh tế nông thôn phát triển mạnh mẽ, trình độ sản xuất tiên tiến, nông dân chuyên nghiệp, sản phẩm có sức cạnh tranh cao, sản xuất nông nghiệp gắn với phát triển thương mại, dịch vụ, du lịch và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu.
Xã hội nông thôn dân chủ, bình đẳng, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường, cảnh quan, không gian nông thôn sáng, xanh, sạch, đẹp; Hệ thống chính trị ở nông thôn được tăng cường; quốc phòng và an ninh trật tự được giữ vững.
3.2. Các nhóm giải pháp “đột phá” phát triển nông thôn thông minh vùng Đông Nam Bộ
Quá trình phát triển kinh tế Việt Nam nói chung và Đông Nam bộ nói riêng dù tốc độ tăng trưởng đã được cải thiện nhiều trong hai thập kỷ qua, nhưng rõ ràng với bối cảnh “tăng trưởng trước, làm sạch sau” trong quá khứ (WB, 2012) nên phải trả một cái giá khá đắt về môi trường, hài hòa và các vấn đề xã hội trong quá trình phát triển. Do đó, để nông thôn vùng Đông Nam bộ phát triển thông minh, hiện đại cần thực hiện Chiến lược 2 “mũi nhọn” dành cho nông thôn Đông Nam bộ trong quá trình phát triển (Hình 1).
3.2.1. Nhóm giải pháp “đột phá” nhằm phát triển nông thôn thông minh, hiện đại vùng Đông Nam bộ
3.2.1.1. Thể chế “đột phá” phát triển nông thôn thông minh
Hiện trạng đô thị và nông thôn phân thành “2 khu vực tăng trưởng” chênh lệch bất ổn, biến động nhân khẩu (hiện tượng di dân từ thành thị về nông thôn sau đại dịch Covid-19), đứt gãy các chuỗi cung ứng sản xuất, tiêu thụ do đại dịch Covid-19, chính sách bảo hộ mậu dịch qua chiến tranh thương mại… sẽ làm tăng áp lực buộc phải hiện đại hóa, phát triển khu vực nông thôn thông minh trong xây dựng NTM. Để đạt mục tiêu, cần “đột phá” xây dựng thể chế, chính sách cụ thể như sau:
(i) Các tỉnh vùng Đông Nam bộ cần đi đầu hợp tác với Bộ NN-PTNT, Bộ Thông tin Truyền thông, Hiệp hội Nông nghiệp số Việt Nam… xây dựng “Quy hoạch phát triển nông thôn thông minh” làm cẩm nang trong thực hiện thời gian tới.
(ii) Cần thuê chuyên gia Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan.. quy hoạch, xây dựng mô hình điểm về làng/xã thông minh (smart village) gắn với các agricultural cluster hiện đại (Thái Lan, Đài Loan đã vận dụng rất thành công) tại Bình Dương, Đồng Nai, TP.HCM, Bình Phước, Bà Rịa - Vũng Tàu… Xây dựng 2 cụm agricultural cluster bắt nguồn từ các lợi thế riêng có của mỗi vùng. Đối với cực phát triển (TP.HCM): lợi thế trong hạ tầng công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao so với toàn vùng và cả nước, TP.HCM mang tính chất điều phối, tìm kiếm các thị trường đầu ra cho nông sản, kết nối với toàn quốc và thế giới. Đồng thời là địa phương đi đầu trong việc ứng dụng các thành tựu công nghệ mới trong nông nghiệp trước khi đi vào phát triển đại trà ở các địa phương còn lại của vùng.
Đối với agricultural cluster 1 (Tây Ninh, Bình Phước, Bình Dương): đây là các địa phương có lợi thế trong phát triển cây công nghiệp, cây ăn quả có giá trị kinh tế cao, sở hữu các doanh nghiệp chế biến nông sản quy mô lớn. Chức năng hỗ trợ của các cực tăng trưởng này là hình thành các cụm sản xuất nông nghiệp hiện đại, liên hoàn mang tính chất cung ứng cho thị trường khi có những thông tin “điều phối” từ cực phát triển là TP.HCM.
Đối với agricultural cluster 2 (BR-VT, Đồng Nai): lợi thế với các cảng biển và chăn nuôi, thủy hải sản. Chức năng hỗ trợ của các cực tăng trưởng này là hạ tầng giao thông, tăng khả năng đối ứng và vận chuyển hàng hoá nông sản ra thị trường trong nước, quốc tế.
(iii) Đối với chính sách về đất đai: Xây dựng quy hoạch sử dụng đất cho vùng nông thôn thông minh, thí điểm cho phép chuyển đất cao su rất lớn ở Đông Nam bộ sang các cụm khu nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp công nghệ số gắn với giải quyết việc làm, sử dụng lao động nông thôn.
(iv) Cần đi đầu thí điểm xây dựng Quỹ Hỗ trợ “nông nghiệp số” sản xuất theo mô hình kinh tế tuần hoàn xanh cho nông thôn vùng ĐNB.
Quá trình dịch chuyển từ tăng trưởng dựa trên tài nguyên sang tăng trưởng xanh đòi hỏi thay đổi cơ bản cách thức học tập và tiếp cận thông tin kỹ thuật, thông tin thị trường cho nông dân… Chia sẻ kinh nghiệm “cộng đồng thịnh vượng” của Hàn Quốc, Trung Quốc.. chúng ta có thể giao cho 60 doanh nghiệp lớn của vùng (như Satra, Co.opMart, Bách hóa Xanh, Cholimex, Vissan, Vineco, Thủy sản Việt - Úc, Donafood, HAGL-Agrico…) đầu tư và phát triển 60 sản phẩm OCOP (về heo, bò, gà, dê, trái cây, thủy sản…) cho 6 địa phương trong vùng Đông Nam bộ.
Các địa phương cần tiên phong chuyển sang chức năng hỗ trợ, kết nối, huy động và cấp vốn cho khu vực nông thôn thông minh. Đồng thời, việc đặt trọng tâm vào nâng cao năng suất và sản lượng hiện nay cho thấy có nhiều dư địa cho việc điều chỉnh đầu tư theo kịp thực tế và yêu cầu của hệ thống ngành kinh doanh nông nghiệp hiện đại trong tương lai ở vùng nông thôn Đông Nam bộ. Từ đó, hình thành các mô hình “thung lũng nông nghiệp hữu cơ” kết hợp du lịch trải nghiệm canh nông hiện đại cho vùng.
3.2.1.2. Giải pháp “đột phá” phát triển nguồn nhân lực nông thôn
Hoàn thiện hệ thống giáo dục nghề nghiệp theo hướng “chuyển mạnh đào tạo nghề theo nhu cầu học nghề của lao động nông thôn và yêu cầu của thị trường lao động”. Phát huy Chương trình 1956 về dạy nghề nông thôn và tập trung đào tạo nghề có tiềm năng của vùng như: chế biến nông sản, nuôi trồng thủy sản, logicstic, du lịch trải nghiệm nông nghiệp sinh thái, dịch vụ dân sinh…
Thực hiện đào tạo nghề khu vực nông thôn theo kiểu “hai cấp độ”. Trước hết, chúng ta cần đẩy mạnh giáo dục các ngành, nghề truyền thống nhằm thực hiện giảm nghèo và phát triển bền vững, giữ vững ổn định; mặt khác, chúng ta thực hiện đi tắt, đón đầu, tập trung giáo dục các ngành nghề hiện đại, theo kiểu công nghệ 4.0 để cung cấp nguồn nhân lực đáp ứng và giải quyết hai vấn đề cơ bản sau: (i) những thách thức và vấn đề liên quan đến kinh tế, xã hội và môi trường còn tồn đọng hiện nay như tỷ lệ lớn lao động nông thôn, nông nghiệp có kỹ năng thấp (chiếm khoảng 70% dân số); (ii) nhanh chóng tận dụng những cơ hội và thế mạnh để đột phá nhằm vươn tầm quốc tế, vượt lên những thách thức mới với đội ngũ lao động có kỹ năng, trình độ đẳng cấp quốc tế trong các lĩnh vực ứng dụng công nghệ mới, hiện đại.
Do đó, cần phát triển các trường nghề thành trung tâm đào tạo thích ứng (Education-Hub) trọng điểm cho Vùng; và trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực vùng ĐNB cần làm đúng 2 nhiệm vụ cơ bản: (1) Hiểu rõ các yêu cầu của hội nhập, CMCN4.0 để chủ động trong việc đào tạo nguồn nhân lực mới của Vùng và (2) Định hướng mục tiêu giáo dục và chính sách cụ thể cho từng giai đoạn phát triển của nông thôn thông minh vùng ĐNB.
3.2.1.3. Về huy động nguồn lực tài chính phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn
Nếu như trước đây, vấn đề phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn là một phần trong cơ cấu chi tiêu công của Nhà nước. Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 vẫn còn khá phức tạp, nguồn vốn giải quyết an sinh xã hội, chống dịch đang đặt tài khoá nước nhà đối diện với thâm hụt ngân sách trầm trọng, thì việc trông đợi vào tài chính công phát triển khu vực nông thôn vùng Đông Nam bộ còn khá xa.
Do đó, “chủ động” trong huy động nguồn lực tài chính phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn là điều kiện cần để rút ngắn quá trình phát triển có mục tiêu. Bài học kinh nghiệm mà nông thôn vùng Đông Nam bộ có thể tham khảo từ chương trình “thịnh vượng chung” hay còn gọi là "cộng đồng phú dụ" mà Trung Quốc đang theo đuổi khá thành công (xem ở Phụ lục 1). Công ty, tập đoàn lớn ở khu vực thành thị trong Vùng sẽ chịu trách nhiệm phát triển xã nghèo ở vùng nông thôn Đông Nam bộ, và coi như xã đó là 1 bộ phận của công ty, các tập đoàn này phải đầu tư cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế ở các địa phương đó. Đây là trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và sẽ nhận được những chính sách, đãi ngộ từ nhà nước. Ở Hàn Quốc cũng bắt đầu manh nha với phong trào làng mới (Saema'eul Undong), khi nông sản được trồng ở những huyện nghèo nhất Hàn Quốc, các tập đoàn tới đặt nhà máy chế biến theo chương trình bắt buộc của chính phủ với nghĩa vụ cân bằng kinh tế. Tiền thuế từ các nhà máy sẽ giúp địa phương có tiền để đầu tư bệnh viện hiện đại, đường sá nông thôn rộng rãi khang trang, trường học sạch đẹp,… Về lâu dài, việc “kèm cặp” này sẽ giúp khu vực nông thôn Đông Nam bộ khởi sắc, tiến cận hơn với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
3.2.2. Nhóm giải pháp “bổ trợ” khơi thông các hạn chế để xây dựng nông thôn thông minh vùng Đông Nam bộ
3.2.2.1. Giải pháp về bảo vệ môi trường cho khu vực nông thôn Vùng
Cần phải có những chiến lược chủ động về bảo vệ môi trường trong nông nghiệp, nông thôn vùng Đông Nam bộ, tính tới việc dự báo các rủi ro môi trường và đặt mục tiêu ngăn ngừa suy thoái hóa môi trường ngay từ đầu. Do đó, Chính phủ có thể tạo điều kiện và khuyến khích các tập đoàn, doanh nghiệp tư nhân đầu tư sản xuất sạch, xanh gắn với mô hình kinh tế tuần hoàn để bảo vệ môi trường thông qua các biện pháp ưu đãi vốn, công nghệ và cung cấp thông tin.
Nông thôn Đông Nam bộ cần chuyển sang hướng nông nghiệp thông minh với khí hậu (climate-smart agriculture, CSA). Nông nghiệp thông minh với khí hậu chính là việc hướng đến việc áp dụng ở nhiều cấp các quy trình nhằm xác định những chính sách, giải pháp phù hợp với tình hình, tạo điều kiện cho ngành nông nghiệp thực hiện tốt hơn những chức năng đa dạng của mình trong bối cảnh biến đổi khí hậu. Theo Tổ chức Nông lương Liên Hiệp Quốc (2013), nông nghiệp thông minh với khí hậu “hướng đến việc hỗ trợ các nước đề ra những chính sách, các công cụ kỹ thuật, tài chính cần thiết để lồng ghép các vấn đề biến đổi khí hậu vào ngành nông nghiệp, tạo cơ sở để thực hiện phát triển nông nghiệp bền vững trong tình hình mới”.
3.2.2.2. Giải pháp về ứng dụng khoa học công nghệ cho nông thôn
Làm chủ khoa học công nghệ chính là điểm mấu chốt giúp nông thôn vùng Đông Nam bộ bứt phá và tiệm cận với tăng trưởng xanh. Cần áp dụng công nghệ của CMCN4.0. Các tỉnh, thành phố vùng Đông Nam bộ cần thúc đẩy chuyển đổi số, nông nghiệp công nghệ số… cho vùng, bằng cách tích hợp vào “Kế hoạch chuyển đổi số” địa phương.
Các địa phương cần hỗ trợ, khuyến khích những doanh nghiệp, nhà cung cấp công nghệ số vào trang trại tuần hoàn, doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng IoT, sàn nông sản điện tử… đây là những cơ sở hạ tầng quan trọng để nông thôn vùng Đông Nam bộ phát triển xanh, thông minh với thời gian ngắn trong tương lai.
3.2.2.3. Giải pháp về thị trường “đầu ra” cho nông sản hàng hóa, dịch vụ vùng nông thôn Đông Nam bộ
Nhanh chóng thay đổi cấu trúc (structural change) ngành nông nghiệp. “Phẫu thuật” ngành nông nghiệp vùng Đông Nam bộ để thấy rõ ngành nào có lợi thế cạnh tranh, ngành nào không. (1) Đối với những ngành có lợi thế cạnh tranh như rau quả, cây công nghiệp (cao su, tiêu, điều, trà, cà phê,…) cần tập trung nguồn lực để đầu tư phát triển. (2) Đối với những ngành không có lợi thế cạnh tranh nhưng có tiềm năng thì cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh lên ngay như sản phẩm chăn nuôi (heo, bò, gà, vịt). (3) Đối với sản phẩm không có lợi thế cạnh tranh và không có tiềm năng thì cần nhanh chóng chuyển đổi như mía đường, sữa,…
Để nâng cao năng lực cạnh tranh, phải đạt được hai mục tiêu cơ bản là giá thành thấp và chất lượng cao. Cần đi đầu gắn kết các doanh nghiệp lớn của vùng nêu trên theo hướng “Doanh nghiệp đồng hành với sản phẩm OCOP Đông Nam bộ” để phát triển nông nghiệp nông thôn vùng. Từ đó ứng dụng tiến bộ trong sản xuất nông nghiệp, kiểm soát nghiêm ngặt chất lượng và an toàn thực phẩm đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế. Và cần nghiên cứu phân tích thị trường một cách khách quan, trung thực cho từng nông sản để có chiến lược phù hợp, nghiên cứu sâu tìm phân khúc thị trường cho từng nông sản. Liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài để đưa nông sản vùng vào chuỗi cung ứng quốc tế.
4. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
(1) Đề xuất, kiến nghị với Quốc hội
Ưu tiên bố trí tăng nguồn lực hỗ trợ thực hiện Chương trình giai đoạn 2021-2025 để đảm bảo hỗ trợ được các địa phương vùng khó khăn, đặc thù có đủ nguồn lực để đạt chuẩn NTM; cũng như hỗ trợ chính sách, vốn cho các địa phương đã đạt chuẩn tiếp tục phấn đấu xây dựng NTM nâng cao thành “nông thôn thông minh”.
(2) Đề xuất, kiến nghị với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương
(i) Đề nghị Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Nông nghiệp và PTNT chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành Trung ương có liên quan xây dựng Báo cáo chủ trương đầu tư Chương trình MTQG xây dựng NTM giai đoạn 2021-2025 báo cáo Chính phủ xem xét trình Quốc hội theo quy định của Luật Đầu tư công;
(ii) Đề nghị Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Nông nghiệp và PTNT chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành Trung ương và địa phương rà soát, nghiên cứu đề xuất phương án cập nhật và ban hành bộ tiêu chí quốc gia về NTM (cấp thôn, xã, huyện) cho phù hợp hơn, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
(iii) Đề nghị Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Nông nghiệp và PTNT chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ và các Bộ, ngành liên quan tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện Chương trình KHCN phục vụ xây dựng NTM giai đoạn 2012-2020, làm cơ sở rút kinh nghiệm và nghiên cứu đề xuất định hướng, mục tiêu và nhiệm vụ để tiếp tục thực hiện trong giai đoạn 2021-2025 trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
(3) Đề xuất, kiến nghị với các địa phương ĐNB
(i) Các địa phương cần thí điểm lồng ghép đầu tư, XDNTM gắn với việc phát triển thành “nông thôn thông minh”;
(ii) Ban hành các chính sách, nguồn lực, quỹ hỗ trợ đặc thù cho xây dựng “nông thôn thông minh” ở địa phương.
---
Tài liệu tham khảo:
[1] Lao động nông nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ lớn, chủ yếu làm thủ công nên năng suất lao động thấp (chỉ bằng 38% năng suất lao động bình quân cả nước).
[2] Tỷ lệ thu nhập từ hoạt động sản xuất trực tiếp nông nghiệp và phi nông nghiệp trong tổng thu nhập của hộ nông thôn là 58% ở cả xã đạt chuẩn và chưa đạt chuẩn NTM. Phần còn lại chủ yếu do tiền gửi của người di cư, người thân và các hỗ trợ khác.
[3] Tỷ lệ doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp còn hạn chế, chỉ chiếm 1,2% tổng số doanh nghiệp, chủ yếu là các doanh vừa và nhỏ. Ngay cả những vùng có tiềm năng lớn về nông nghiệp như ĐBSCL thì cũng chỉ có 1500 doanh nghiệp nông lâm thủy sản.
[4] Đầu tư cho nghiên cứu và phát triển nông nghiệp của Việt Nam chỉ chiếm 0,2% GDP nông nghiệp, so với các nước xung quanh thường ở mức 0,5% GDP nông nghiệp và có thể lên tới 2-4% GDP nông nghiệp như trường hợp của Trung Quốc, Đài Loan…
[5] Trong các đơn vị kinh tế nông nghiệp thì 99,89% là hộ nông dân, 0,04% doanh nghiệp, 0,07% HTX; 36% hộ diện tích < 0,2ha; 50% doanh nghiệp có dưới 10 lao động.
[6] Theo kết quả Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2016 của Tổng cục Thống kê, diện tích đất bình quân một trang trại là 4,4ha (gồm cả đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất thủy sản và đất nông nghiệp khác). Nếu tính riêng đất nông nghiệp thì diện tích bình quân một trang trại chỉ là 1,4ha. Bình quân số lao động một trang trại là 4 người, gồm cả lao động gia đình.
18 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thức XIII, t1, Nxb Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2021, tr.249.
2 https://dangcongsan.vn/xa-hoi/dong-nam-bo-dan-dau-ve-xay-dung-nong-thon-moi-541684.html
[7] Hiệu quả về sử dụng các nguồn lực; toàn diện ở mọi lĩnh vực, các cấp, các vùng miền; bền vững về môi trường, biến động thị trường và biến đổi khí hậu.