Phong cách ứng xử ngoại giao Hồ Chí Minh

Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là nhà chính trị lỗi lạc, mà còn là nhà ngoại giao kiệt xuất của cách mạng Việt Nam, là người sáng lập và đặt nền móng cho ngành ngoại giao cách mạng Việt Nam, đồng thời định hướng cho nền văn hoá ngoại giao Việt Nam hiện đại. Văn hoá ngoại giao của Người mang những giá trị đặc sắc được thể hiện qua tư tưởng, hoạt động, tri thức, ngôn ngữ, nghệ thuật và phong cách ứng xử.

Người là Chủ tịch nước kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao đầu tiên của nước VNDCCH. Người đã trực tiếp soạn thảo đường lối đối ngoại, đồng thời trực tiếo lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện các hoạt động đối ngoại, đưa ngoại giao trở thành một mặt trận, đóng góp to lớn vào thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giao thiệp với rất nhiều bạn bè trên thế giới, có những người bạn cùng chí hướng, có cả những kẻ thù, trong nhiều hoàn cảnh và trên nhiều vị thế khác nhau. Phong cách ứng xử tài tình của Người trong hoạt động đối ngoại đã góp phần không nhỏ vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam cũng như phong trao đấu tranh cho nền hòa bình chung của nhân loại. Như Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói "sự ứng xử linh hoạt của Hồ Chí Minh trong giao tiếp ngoại giao đã trở thành những câu chuyện huyền thoại".

hct-tiep-doan-tri-thuc-my-phan-doi-chien-tranh-vn-17-1-1967-1681288945.jpg
Hồ Chủ tịch tiếp đoàn trí thức Mỹ phản đối chiến tranh Việt Nam, 17-1-1967

Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu các hoạt động đối ngoại từ khi ra đi tìm đường cứu nước năm 1911. Người thực hiện rất nhiều dạng hoạt động, từ giao lưu với nhân dân, tiếp xúc với báo chí, lập hội, viết báo, viết sách nói về nỗi thống khổ của nhân dân Việt Nam, nhân dân các nước thuộc địa, tố cáo tội ác của thực dân, đế quốc. Tất cả các hoạt động này đều nhằm mục tiêu giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân. Từ khi Đảng ta ra đời dưới sự lãnh đạo của Người, độc lập dân tộc luôn luôn là mục tiêu cao nhất của công tác đối ngoại. Các hoạt động của Người dù với tư cách là một nhà cách mạng hay là nguyên thủ quốc gia đều thể hiện rõ nét phong cách ngoại giao gần gũi theo cách tiếp cận quần chúng nhân dân.

Thế giới ca ngợi văn hóa ngoại giao Hồ Chí Minh vì không những Người là một biểu tượng mẫu mực về đạo đức mà phong cách ngoại giao của Người là tấm gương cho lãnh đạo các nước và giới chính khách học tập. Như một nhà nghiên cứu đã nói, Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự kết hợp tuyệt vời giữa “đức khôn ngoan của Phật, lòng bác ái của Chúa, triết học của Mác, thiên tài cách mạng của Lênin...” Qua nghiên cứu và tìm hiểu, chúng ta có thể cô đúc về phong cách ngoại giao kiệt xuất Hồ Chí Minh với những đặc điểm chính sau:

Phong cách ứng xử linh hoạt, bản lĩnh, tự tin, trí tuệ và khôn khéo của Hồ Chí Minh để giữ vững mục tiêu đấu tranh vì độc lập, tự do và hòa bình của dân tộc.

Chính phong cách ứng xử ấy của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mang lại sự cảm phục yêu mến đối với Người. Thủ tướng Ấn Độ Jawaharlal Nehru đã từng nói: “Chúng ta được tiếp xúc với một người, người ấy là một phần lịch sử của châu Á. Ngoài phần gặp gỡ một con người vĩ đại, chúng ta không chỉ được tăng thêm về sự hiểu biết, mà chúng ta còn lớn lên về tầm vóc. Được gặp người ấy, một con người từng trải khiến chúng ta trở nên tốt hơn”.

112b-01-1681289233.jpg

Phong cách ứng xử nhân văn của Người đã được nhà nghiên cứu Mỹ David Halberstam ghi nhận: “Toàn thể con người của ông toát lên một phong thái bình dị và tế nhị bẩm sinh”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã “đi xa” cách nay đã 54 năm, nhưng tư tưởng ngoại giao của Người là bản sắc của một nền ngoại giao hiện đại, là cội nguồn sức mạnh đầy sức sống của ngoại giao Việt Nam và là nhân tố giúp cho ngoại giao Việt Nam luôn đi đúng hướng, giữa muôn và biến cố của thời cuộc, luôn vững vàng nguyên tắc trong mọi chao đảo của tình hình trong mọi giai đoạn cách mạng. Người đã để lại nhiều bài học quý báu cho ngoại giao Việt Nam hiện nay. Di sản Hồ Chí Minh không chỉ trở thành kim chỉ Nam cho đường lối hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, mà còn trở thành một bộ phận “sức mạnh mềm” của ngoại giao Việt Nam. Đó là ngoại giao nhân dân hiện nay.  

Sự kiên định giữ vững nguyên tắc độc lập, tự chủ nhưng lại hết sức mềm dẻo, linh hoạt trong sách lược, khéo léo và bản lĩnh để đấu tranh ngoại giao trước kẻ thù nhằm giành, giữ và bảo vệ nền độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân Việt Nam đã trở thành nét đặc sắc và được nhắc đến nhiều trong phong cách ứng xử ngoại giao của Hồ Chí Minh. Lúc hoạt động ở Pháp, khi được hỏi tại sao bỏ phiếu tán thành Quốc tế III, Người trả lời: "Rất giản đơn, Đệ tam quốc tế nói sẽ giúp đỡ dân tộc bị áp bức giành lại tự do và độc lập. Vì vậy tôi đã bỏ phiếu tán thành. Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn". Và cả khi đứng trước kẻ thù của dân tộc Người luôn ngẩng cao đầu, tự tin và bản lĩnh.

Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh bao hàm những nguyên lý, nội dung, phương pháp, phong cách và nghệ thuật ngoại giao. Người đề cao các quyền dân tộc cơ bản, bao gồm độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước, hoà bình và chống chiến tranh xâm lược. Người nhấn mạnh ngoại giao “phải luôn luôn vì lợi ích của dân tộc mà phục vụ”; độc lập tự chủ, tự lực tự cường phải gắn liền với đoàn kết và hợp tác quốc tế, theo đó Việt Nam sẵn sàng “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với ai” Người hết sức coi trọng tình hữu nghị và hợp tác với các nước láng giềng có chung biên giới , mở rộng bang giao với các nước trong khu vực và trên thế giới, xử lý tốt mối quan hệ với các nước lớn để phục vụ lợi ích cách mạng.

Về phương pháp, Người xác định ngoại giao là một mặt trận, một binh chủng hợp thành của cách mạng Việt Nam, kết hợp nhuần nhuyễn “vừa đánh vừa đàm”, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, để tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn. Người luôn đặt Việt Nam trong dòng chảy của thế giới, coi trọng các trung tâm quyền lực, các trào lưu lớn. Người đề cao “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, lấy cái không thể thay đổi để ứng phó với muôn sự thay đổi, giữ vững tính nguyên tắc, kiên định, vững chắc của mục tiêu chiến lược với tính linh hoạt, uyển chuyển của sách lược cách mạng.

Trên nền tảng văn hoá dân tộc, phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh thấm đẫm giá trị tinh hoa văn hoá của nhân dân, kết hợp nhuần nhuyễn văn hoá Đông Tây. Về tư duy, Người căn dặn phải có quan điểm toàn diện, để thấy rõ được xu thế chung và chiều hướng của tiến bộ xã hội. Trong ứng xử, Người kết hợp hài hoà giữa các giá trị dân tộc và quốc tế, làm cho mọi người cảm thấy gần gũi, thân tình. Trong giao tiếp, Người thể hiện tính cách bình dị để gửi gắm những thông điệp ngoại giao.

Nét nổi bật về nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh là sự vận dụng nhuần nhuyễn “năm cái biết”: biết mình, biết người, biết thời thế, biết dừng và biết biến là khả năng tạo dựng thời cơ và chớp thời cơ. Là ngoại giao tâm công giúp thu phục lòng người bằng chính nghĩa, tình người, lẽ phải và đạo lý.

Chủ tịch Hồ Chí Minh giữ vững nguyên tắc nhưng về sách lược Người rất khôn khéo, mềm dẻo và linh hoạt “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, biết mình, biết người, biết thời thế để đạt được mục tiêu cao nhất. Sau Cách mạng tháng Tám 1945 chính quyền cách mạng non trẻ của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, phải cùng lúc đối mặt với thù trong giặc ngoài. Nhằm giữ vững chính quyền, phương châm của Người là: Găng nhưng không được bể... Chúng ta sẵn sàng nhân nhượng để có một giải pháp chung. Song, độc lập quốc gia và tự do dân tộc thì không được vi phạm. Trước khi sang Pháp đàm phán, Người dặn lại quyền Chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng bí quyết “Dĩ bất biến ứng vạn biến” và kết quả mọi việc đều chu toàn. Câu nói này về sau gần như trở thành kim chỉ Nam cho hoạt động ngoại giao hiện đại của nước ta. Trên đường từ Pháp về Việt Nam, đô đốc D’Argenlieu xin gặp Người với mục đích diễu võ dương oai, uy hiếp tinh thần. Đến lúc gặp, Người chủ động ôm hôn Đô đốc Pháp làm các đồng chí cùng đi thắc mắc, Người giải thích: “Đánh nhau thì đánh nhau, mình hôn nó một cái thì có mất gì!” Trong buổi chiêu đãi, Người ngồi giữa, một bên là Đô đốc Hải quân Pháp, bên kia là Thống soái lục quân Pháp ở Viễn Đông, A’Argenlieu bóng gió, dậm dọa: “Thưa ông Chủ tich, ông đã được đóng bộ khung rất đẹp của hải và lục quân đó!” Người mỉm cười đáp lại: “Giá trị là ở bức tranh chứ không phải là bộ khung. Chính bức họa đem lại giá trị cho bộ khung!”

Với tinh thần độc lập tự chủ và tư duy sáng tạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn theo sát thực tiễn để dự báo thời cơ, tạo dựng và kịp thời nắm bắt thời cơ, chủ động và linh hoạt trong hoạt động  đối ngoại, theo tinh thần “dĩ bất biến, ứng vạn biến” để “biến đại sự thành tiểu sự, tiểu sự thành vô sự”, vận dụng nhuần nhuyễn nhân nhượng có nguyên tắc và vận dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ đối phương, thêm bạn bớt thù, tiến hành ngoại giao tâm công đề cao tinh thần nhân nghĩa, bác ái và đạo lý trong quan hệ quốc tế. Những phương pháp nghệ thuật ngọai giao tiêu biểu đó được hậu thuẫn bởi tư tưởng nhân văn cao cả trong con người Hồ Chí Minh, thông qua cách thể hiện giản dị, dễ cảm hoá và có sức thuyết phục cao, cùng với lối viết ngắn gọn, hàm súc, dễ hiểu như những vần thơ: Lạc nước hai xe đành bỏ phí/ Gặp thời một tốt cũng thành công, toát lên tính năng động, biến hoá trong tư tưởng cách mạng và tư tưởng ngoại giao của Người.

Người thường căn dặn: Để làm công tác đối ngoại tốt trong bối cảnh quốc tế đầy biến động chúng ta cần nắm vững đường lối đối ngoại, mục tiêu và chính sách ngoại giao của Đảng và Nhà nước trong mỗi giai đoạn cách mạng, đồng thời tính đến tương quan lực lượng, nắm vững thực lực của đất nước và của đối phương, để đưa ra những đối sách ngoại giao cụ thể, phấn đấu đạt được mục tiêu trước mắt và lâu dài. Bác còn căn dặn: “Người ta cương thì mình phải nhu, phải khôn khéo lấy nhu thắng cương thì mới biết mình biết người” và “phải hiểu cả hai bên mới có thể làm tròn nhiệm vụ”.

170b-01-1681289260.jpg

Có thể thấy, ở mọi tình huống Người đều có cách phản ứng nhanh nhạy nhằm khẳng định và nâng cao vị thế của dân tộc. Tháng 5/1946, Cao ủy Đông Dương A’Argenlieu đến Hà Nội. Phía Pháp tổ chức lễ đón long trọng để phô trương thanh thế. Họ mời Bác đến dự lễ vào ngày 19/5/1946. Ngày 18/5 sau khi nhận giấy mời, Người cho thư ký Vũ Đình Huỳnh thông báo với các đồng chí trong Chính phủ, Trung ương và đoàn thể: Ngày 19/5 đến dự kỷ niệm sinh nhật của Bác và cử Bộ trưởng Phan Anh thay mặt Chính phủ đến dự lễ của phía Pháp. Và kết quả là tối 19/5, Cao ủy D’Argenlieu và Ủy viên Cộng hòa Sainteny mang hoa đến chúc mừng sinh nhật của Người. Năm 1946, tàu chở Bác từ Pháp về đi qua vùng Manta, thuộc quyền kiểm soát của nước Anh, viên hạm trưởng Pháp phải cho tàu cập bến để xin thủ tục hải quân Anh. Hiểu rõ thông lệ quốc tế, Người thấy đây là cơ hội tốt để nâng cao hình ảnh và vị thế của đất nước, nên đã yêu cầu kéo lá cờ Việt Nam lên, nhưng viên thuyền trưởng đã thoái thác. Người đáp lời nhẹ nhàng nhưng cương quyết: “Thưa Ngài, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hiện là một nước tự do, là một thành viên trong Liên bang Đông Dương… Hơn ai hết, các Ngài phải hiểu rằng, lá quốc kỳ của chúng tôi phải được kéo lên để cho người Anh và những thực dân khác ở châu Á biết sự hiện diện của nước Việt Nam”. Yêu cầu của Người là rất chính đáng, dù khó chịu nhưng nhà cầm Pháp phải đồng ý. Trong cuốn hồi ký “Câu chuyện về nền hòa bình bị bỏ lỡ”, J. Saiteny bày tỏ tình cảm sâu sắc với Người và khẳng định: “Hồ Chí Minh chỉ có một mục đích thật sự, một mục đích cuối cùng, đó là Độc lập của Việt Nam”.

Phong cách giao tiếp giản dị, chân tình, dễ cảm hóa, có tính thuyết phục cao.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là một con người phi thường và xuất chúng, nhưng lại cực kỳ gần gũi, giản dị. Những vị khách quốc tế gặp Người bao giờ cũng giữ lại ấn tượng sâu sắc và luôn tìm cách lý giải về sức cảm hóa kỳ lạ của Chủ tịch Hồ Chí Minh bởi vốn hiểu biết uyên bác, tài trí thông minh tuyệt vời, ý chí nghị lực; hoặc cũng bởi sự giản dị, lạc quan, thẳng thắn, kinh nghiệm và tự tin kết hợp với phong cách lịch thiệp, nho nhã.

Ngày 12/10/1954, nhà văn Ba Lan M. Julavsky gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Sơn Tây. Người ra hiệu cho đồng chí phiên dịch không phải dịch. Khi nghe phóng viên báo Sự thật hỏi, Người trả lời bằng tiếng Nga. Sau đó Người nói chuyện bằng tiếng Ý với phóng viên Tạp chí UNITA, bằng tiếng Anh với phóng viên báo Công nhân, rồi Người vui vẻ giải thích bằng tiếng Pháp tại sao mình nói được nhiều ngôn ngữ như vậy khiến mọi người đều tỏ ra ngưỡng mộ và khâm phục.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn thể hiện phong cách ngoại giao giản dị, nhân văn, kết hợp hài hoà các giá trị truyền thống và hiện đại, kết tinh văn hoá ứng xử phương Đông và phương Tây.

Cứ mỗi lần chiêu đãi khách, khi tan tiệc Người thường nói theo phong tục người Việt, ăn cỗ phải mang phần về cho người ở nhà nên ai cũng được nhận quà của Người. Khi tiếp khách bạn Lào, thấy gió mùa đông bắc tràn về, Người lấy khăn tặng hai đồng chí quàng khỏi lạnh. Ngày 1/1/1960, các đoàn ngoại giao và khách quốc tế tại Hà Nội đến Phủ Chủ tịch chúc tết Bác Hồ. Cuối bữa tiệc, Bác cầm một quả táo to và túi kẹo đi đến chỗ ông đại sứ Ấn Độ: "Ngài đại sứ có đưa phu nhân sang đây không?", vị tướng ngoại giao cảm động, lúng túng trả lời chỉ đưa theo cháu trai 9 tuổi, Bác nói: "Thế thì tôi gửi ông mang về cho cháu quả táo này và gửi cháu những cái hôn", rồi Bác nói với quan khách: "Tết ở nhà các vị chẳng thiếu thứ gì. Nhưng xin các vị hãy cầm lấy chút hoa quả trên bàn và mang về gọi là quà của Bác Hồ tặng các cháu ở nhà". Mọi người ồ lên vui vẻ, nhưng xúc động và cảm phục sự quan tâm của Hồ Chủ tịch.

132a-01-1681289239.jpg

Chủ tịch Hồ Chí Minh không câu nệ đối đẳng chức vụ trong giao tiếp với các tầng lớp nhân dân trên thế giới ở những cương vị khác nhau, khiến cho mọi người cảm thấy Người thật gần gũi, thân tình. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Người sẵn sàng hòa bình vào cuộc sống của những người dân lao động nghèo khổ ở các dân tộc trên thế giới, kiếm sống bằng những nghề lao động rất bình dị như đầu bếp, chép tranh, cào tuyết… Năm 1913, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành làm phụ bếp cho khách sạn Carlton (Anh), nơi đầu bếp nổi tiếng người Pháp Escoffier làm bếp trưởng. Bất kỳ khi nào nhìn thấy một khoanh bít tết lớn hay miếng thịt gà to còn chưa được đụng đến, anh lại chuyển chúng sang một chiếc đĩa sạch và gửi trở lại nhà bếp. Một lần, Escoffier hỏi Ba “Tại sao anh không vứt những thức đó vào thùng rác như những người khác?”, anh Ba trả lời “Những thứ này không nên vứt đi. Ông có thể mang chúng cho người nghèo”. Khi trên cương vị Chủ tịch nước, tình yêu thương bao la đối với người dân lao động càng được vun đắp, Bác luôn quan tâm, gần gũi không hề có khoảng cách giữa lãnh tụ và quân chúng. Trong chuyến thăm Ấn Độ năm 1958, Bác đã nồng nhiệt bắt tay những người dân nghèo và trò chuyện với họ vô cùng thân thiện, gọi họ là những người bạn, người đồng chí, đây là điều hiếm thấy trong xã hội Ấn Độ khi còn tồn tại tàn dư của chế độ phân chia đẳng cấp.

Mỗi cử chỉ hành động của Người đều rất khéo léo, cẩn trọng, có thái độ và cách ứng xử phù hợp để tránh những nghi thức ngoại giao khi cần mà vẫn giữ được tình cảm chân thành đối với những người bạn, đồng chí, anh em đã từng kề vai sát cánh, giúp đỡ Người trên con đường hoạt động cách mạng. Ngày 15/12/1961, Đoàn đại biểu Trung Quốc do Nguyên soái Diệp Kiếm Anh dẫn đầu sang thăm hữu nghị nước ta. Khi biết Đoàn đại biểu sẽ đến chào mình ngay sau khi tới Việt Nam, Người đã ôn tồn nói: “Hồi trước, khi Bác đi từ Diên An về phương Nam, đồng chí Diệp Kiếm Anh đã từng là đội trưởng và Bác là bí thư chi bộ. Do đó, Bác quyết định là Đại tướng Võ Nguyên Giáp sẽ ra đón đoàn ở sân bay, khi về tới Bắc Bộ phủ đã có Bác. Bác sẽ dự cơm thân mật với đoàn đại biểu Trung Quốc, nhưng không công bố trên báo, vì như vậy sẽ không tiện về mặt lễ tân. Bởi lúc đó Bác là Chủ tịch nước, còn đồng chí Diệp Kiếm Anh chỉ là một trong mười nguyên soái của Trung Quốc. Nhưng là chỗ thân tình từ trước đến nay nên Bác sẽ có mặt ở Bắc Bộ phủ. Bác không thể làm khác được”. Khi được đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh đón tiếp đồng chí Diệp Kiếm Anh đã rất cảm phục trước ứng xử thấu tình đạt lý của Người.

Phong cách ứng xử bản lĩnh, tự tin và khôn khéo của Hồ Chủ tịch là nhằm giữ vững mục tiêu đấu tranh vì độc lập, tự do và hoà bình của dân tộc.

Sự kiên định giữ vững nguyên tắc độc lập tự chủ nhưng lại hết sức mềm dẻo, linh hoạt trong sách lược, khéo léo và bản lĩnh để đấu tranh ngoại giao trước kẻ thù nhằm giành, giữ và bảo vệ nền độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân Việt Nam, tạo thành nét đặc trưng trong phong cách ứng xử ngoại giao Hồ Chí Minh. Lúc hoạt động ở Pháp, khi được hỏi tại sao bỏ phiếu tán thành Quốc tế III. Người trả lời: “Rất giản đơn, Đệ tam Quốc tế nói sẽ giúp đỡ dân tộc bị áp bức giành lại tự do và độc lập. Vì vậy, tôi đã bỏ phiếu tán thành. Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn”. Và cả khi đứng trước kẻ thù của dân tộc , Người luôn ngẩng cao đầu, tự tin và bản lĩnh. Cuối tháng 6 năm 1922, viên Toàn quyền Đông Dương Albert Saraut cho gọi Nguyễn Ái Quốc lên để doạ nạt, cảnh cáo trước những hoạt động cách mạng của Người ở Pháp. Ông ta tìm mọi cách mua chuộc Nguyễn Ái Quốc, nhưng Người đã khảng khái đáp trả viên Toàn quyền Đông Dương: “Cảm ơn Ngài! Cái mà tôi cần nhất trên đời là đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập ...”. Cuộc gặp tuy ngắn ngủi, nhưng đã thể hiện khí phách bất khuất trước kẻ thù, sự kiên định với lý tưởng và thái độ ung dung, bình tĩnh của Nguyễn Ái Quốc trước tay cáo già thực dân, khiến Albert Saraut phải kính nể. Vì thế trong chuyến đi thăm chính thức nước Phap năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời Albert Saraut đến dự bữa tiệc  chiêu đãi, khi gặp Người ông ta phải thốt lên: “C’est vous!” (lại là ông!).Tôi đã trải qua một phần lớn cuộc đời để chạy theo ông”.  

148-01-1681289246.jpg

Ngay cả đối với kẻ thù khi đã buông súng đầu hàng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đối xử với họ rất khoan dung, độ lượng. Lòng bao dung, bác ái toát lên một cách thật tự nhiên, giản dị từ những cử chỉ, hành động của Người. Khi thăm trại tù binh trong chiến dịch Biên giới 1950, thấy một đại úy quân y Pháp đang rét run vì lạnh. Người đã cởi chiếc áo khoác của mình trao cho anh ta. Viên sĩ quan Pháp cảm động trào nước mắt. Sau đó Người gọi đồng chí Cao Pha - Trưởng ban quân báo đến nhắc nhở: “Sao chú cho lột giày tù binh rồi treo lên cổ họ? Đối với người phương Tây, không có giầy dép họ đi lại rất khó khăn, khổ sở. Nếu sợ tù binh chạy trốn thì chí ít chú phải cho họ đi tất chứ!”. Trong chuyến trao trả tù binh cuối cùng sau kháng chiến chống Pháp ngày 3/9/1954, một sĩ quan Pháp đã xúc động nói: “Trong tấm lòng biết ơn nhân dân Việt Nam, tôi không thể nào quên Chủ tịch Hồ Chí Minh với tấm lòng khoan dung, đại lượng và chính sách khoan hồng của Người đối với chúng tôi”. Nhà thơ Đức Vili Xanbao đã viết: “Trong tầm nhìn của Bác, không những cho thấy Người là nhà Quốc tế đáng kính phục mà còn là nhà văn hóa lớn, giàu tình thương yêu nhân loại”.

Nhờ vốn sống phong phú, sự am hiểu tình hình thế giới, đặc biệt nhanh chóng nhận biết được ý định của người đối thoại mà Hồ Chí Minh có thể lựa chọn cách ứng xử hợp lý nhất. Người dùng ngôn ngữ giản dị, ngắn gọn và dễ hiểu song đầy sức thuyết phục để khơi dậy tình cảm nhân văn của người đối thoại, thuyết phục họ chấp nhận lẽ phải. Không chỉ lời nói, có những hoàn cảnh, chỉ cần một hành động nhỏ của Bác cũng thấy thuyết phục lòng người. Trong chuyến thăm chính thức Pháp năm 1946, một phóng viên đã hỏi Người: “Thưa Chủ tịch Ngài có phải là cộng sản không?”. Điềm tĩnh đi tới lẵng hoa trên bàn, Hồ Chí Minh rút ra những bông hoa đẹp nhất, đem tặng những người có mặt và nói: “Tôi là người cộng sản thế này!”. 

Đôi lúc Người cũng diễn đạt một cách hài hước, ví von nhưng vẫn giữ được sự tinh tế, sâu sắc để người nghe dễ cảm nhận. Ngày 26/7/1957, cuộc hội đàm giữa đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ ta với các vị đại diện nước Cộng hòa Dân chủ Đức diễn ra suốt cả ngày, ai cũng mệt mỏi và buồn ngủ. Khi phía bạn báo cáo năng suất cao của việc nuôi một loại cá chép lai giống, Bác hỏi: “Các đồng chí có loại cá không có xương không?”. “Thưa không. Ở Việt Nam có loại cá không xương hay sao?”. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Otto Grotewohl hỏi với vẻ ngạc nhiên. Nghiêm nét mặt Người nói: “Vâng, có”. “Thưa Chủ tịch, có thể xuất khẩu loại cá ấy cho chúng tôi được không?”. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Otto đề nghị. Người trả lời: “Chúng tôi sẵn sàng”. Rồi Người kể về câu chuyện "con cá gỗ" của đồng bào xứ Nghệ. Các đại biểu được một trận cười thoải mái. Vào khoảng 22h ngày 17/7/1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi dạo với vợ chồng Thủ tướng Đức Otto và Johana trên đường phố Berlin, khi người dân nhận ra và xúm lại, vây quanh, Bác đã bắt tay từng người rồi hỏi chuyện một đôi nam nữ trẻ tuổi bằng tiếng Đức: “Các cháu có biết không, sang đến đây Bác mới biết mình là người giàu nhất nước Đức này?”, Người giơ tay chỉ và nói: “Các cửa hàng lớn đều đề tên HO là của Bác! (HO tiếng Đức là viết tắt tên cửa hàng quốc doanh)”. Thế là tất cả mọi người đều vỗ tay cười trước câu nói dí dỏm đó.

Charles Fourniau, nhà sử học Pháp hồi tưởng buổi phỏng vấn Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 15/7/1969: “Giọng nói của Người rất tự chủ, lúc nào cũng đi thẳng vào vấn đề, không chút nghi thức. Giờ phát được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh hôm ấy là một trong những giờ phút đáng ghi nhớ trong đời tôi. Người không để lộ với tôi những bí mật nhà nước, không tìm cách dạy tôi một bài học về đạo đức hay chính trị nhưng càng nghe tôi càng thấy Người vừa nói về một vấn đề lớn của đất nước, vừa dạy cho tôi một bài học luân lý chính trị”. 

Cách diễn đạt ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu và mang giá trị thực tiễn cao.

Nhà sử học Italy Pino Perugia đánh giá bức thư Gửi đồng bào toàn quốc của Hồ Chí Minh viết năm 1944: "Là một bản tổng hợp tiêu biểu sự tiến triển chính trị và tư tưởng của cả một dân tộc". Bản Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam do Người đọc ngày 2/9/1945 đã mở đầu bằng câu trích từ Tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ, sau đó là dẫn ý bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791. Thực dân Pháp trở mặt quay lại xâm lược nước ta, Người ra lời hiệu triệu: "Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước".

Chủ nghĩa đế quốc thay chân chủ nghĩa thực dân cũ với vũ khí tối tân hơn, nhiều tiền hơn, lắm lính đánh thuê hơn. Người gửi thư cho nhân dân Mỹ: "Chính phủ Mỹ lầm tưởng rằng với sức mạnh tàn bạo, họ có thể bắt nhân dân Việt Nam chúng tôi phải đầu hàng. Nhưng nhân dân Việt Nam quyết không bao giờ khuất phục. Chúng tôi yêu chuộng hòa bình, nhưng phải là hòa bình chân chính trong độc lập, tự do. Vì độc lập tự do, nhân dân Việt Nam quyết không sợ gian khổ, hy sinh và quyết chiến đấu chống bọn xâm lược đến thắng lợi hoàn toàn".

Trước ý đồ đẩy miền Bắc Việt Nam về thời kỳ đồ đá bằng bom rải thảm, Người kêu gọi: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do! Nhân dân Việt Nam nhất định thắng! Giặc Mỹ xâm lược nhất định thua". Nhà văn Stanley Karent đã viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tạp chí Time: "Không hề có sự lay chuyển trong niềm tin của ông Hồ, không thể làm nhụt ý chí của Người. Ngay cả khi cuộc chiến tranh tàn phá đất nước của Người, Người vẫn tin tưởng vào ngày độc lập của Việt Nam. Và hàng triệu người Việt Nam đã chiến đấu và hy sinh để giành mục tiêu này".

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết hơn 1500 bài báo dưới 53 bút danh khác nhau và Người thường xuyên đọc khoảng 70 loại báo trong và ngoài nước. Jean Lacouture nhận định: "Văn phong kỳ lạ, rõ ràng là thế! Người ta không thấy có giọng văn này ở cả Xtalin, Churchill hay De Gaulle, còn văn Cụ Hồ thì vươn tới tiếng nói của lịch sử".

Ứng xử với phương châm “vừa là đồng chí, vừa là anh em” nhằm xây dựng khối đại đoàn kết giữa các quốc gia trên thế giới, tranh thủ sự ủng hộ quốc tế trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, tự do cho nhân dân.

Phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh là sự kết hợp của nhiều nguồn lực trí tuệ, tinh thần, vật chất, tạo nên một sức mạnh tổng hợp. Đúng như nhà báo Mỹ David Halberstam kết luận trong cuốn sách "Hồ" rằng: "Hồ Chí Minh là một trong những nhân vật kỳ lạ của thời đại này - hơi giống Gandhi, hơi giống Lênin, hoàn toàn Việt Nam".

Bằng lời nói và việc làm cụ thể, Hồ Chí Minh luôn nêu cao tấm gương tuyệt vời về tinh thần đoàn kết quốc tế “bốn phương vô sản đều là anh em”, những tình cảm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với anh em, bạn bè trên thế giới là biểu hiện tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình nhân loại và tiến bộ xã hội. Trước mỗi thắng lợi cách mạng của các dân tộc, Người đều gửi thư chúc mừng và coi đó cũng là thắng lợi của nhân dân Việt Nam. Đánh giá về thắng lợi cuộc kháng chiến của nhân dân Triều Tiên (1950-1953), Người khẳng định: “Kháng chiến Triều Tiên thắng lợi. Đó là thắng lợi của phe ta. Thắng lợi của anh em ta tức là thắng lợi của ta”. Phấn khởi trước thành tựu của nhân dân Liên Xô về xây dựng xã hội chủ nghĩa, Người đã viết: “Chúng tôi coi sự nghiệp và thành tựu của nhân dân Liên Xô báo hiệu và đảm bảo cho sự nghiệp và thành tựu của chính mình”. Trong chuyến thăm Liên Xô năm 1955, khi nói chuyện với các đồng chí Lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xô, Người thân tình nói rằng: “Tuy Việt Nam và Liên Xô cách nhau hàng ngàn dặm nhưng trái tim chúng ta luôn luôn ở bên nhau và đập chung một nhịp”.

172d-01-1681289270.jpg

Trước những mâu thuẫn, xích mích nhau giữa các nước xã hội chủ nghĩa đặc biệt giữa hai nước Liên Xô và Trung Quốc đã gây ảnh hưởng lớn đến phong trào cách mạng chung của thế giới cũng như cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất lo lắng. Ngày 2/11/1960, đại biểu của 81 Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế đã họp tại Mátxcơva. Tại cuộc họp này, cả Liên xô và Trung Quốc không tìm được tiếng nói chung. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những ứng xử khéo léo, với uy tín cao, đã kết hợp giải thích, thuyết phục và tìm cách hòa giải. Trong bài phát biểu trước hội nghị Người nhấn mạnh: “Trong sự đoàn kết giữa các nước xã hội chủ nghĩa, giữa các đảng Mác – Lênin trên thế giới, sự đoàn kết giữa Liên Xô và Trung Quốc, giữa Đảng cộng sản Liên Xô và Đảng cộng sản Trung Quốc có một tầm quan trọng đặc biệt. Chúng tôi cảm thấy rất sâu sắc tầm quan trọng của sự đoàn kết giữa Liên Xô và Trung Quốc… Chúng ta đều là anh em ruột thịt trong đại gia đình cộng sản quốc tế. Để đánh thắng kẻ thù chung chúng ta nhất định phải đoàn kết chặt chẽ”. Cuối cùng Người đã đưa hai đoàn Liên Xô, Trung Quốc đi tới đồng thuận và Tuyên bố chung của Hội nghị 81 đảng được thông qua. Không những vậy Chủ tịch Hồ Chí Minh còn khéo léo tỏ rõ lập trường quan điểm của mình. Năm 1960, ở Trung Quốc diễn ra cuộc Cách mạng văn hóa, Người đã thực hiện chủ trương “cách mạng văn hóa là vấn đề nội bộ Trung Quốc”. Không tỏ thái độ ủng hộ hay phản đối, nhưng khi được Chủ tịch Mao Trạch Đông gợi ý thực hiện cách mạng văn hóa ở Việt Nam, Người đã nhã nhẵn, khéo léo từ chối: “Việt Nam trước mắt không thể làm đại cách mạng văn hoá, chúng tôi còn làm đại cách mạng võ hoá đã”. 

Là nhà hoạt động cách mạng đấu tranh vì quyền lợi của các tầng lớp nhân dân, ứng xử của Hồ Chí Minh thấm đẫm tính nhân văn sâu sắc. Người thực hiện chính sách ngoại giao “tâm công”, phân biệt rất rõ đâu là thù đâu là bạn để có những ứng xử phù hợp nhằm khơi dậy những tình cảm tốt đẹp của nhân dân thế giới yêu chuộng hòa bình, kêu gọi sự ủng hộ Việt Nam trong cuộc đấu tranh bảo về nền độc lập dân tộc. 17 giờ ngày 26/6/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp luật sư Max Clainville Bloncourt, Người bày tỏ nỗi lòng: “Tôi không hề căm thù người Pháp. Tôi không hề ghét bỏ nhân dân Pháp. Tôi yêu mến nước Pháp và nhân dân Pháp. Tôi đến đây để đàm phán, để đòi độc lập và tự do cho nhân dân tôi. Chỉ có thế thôi”. Trong Lời kêu gọi Chính phủ Pháp và nhân dân Pháp ngày 10/1/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Chúng tôi muốn hòa bình ngay để máu người Pháp và Việt ngừng chảy. Những dòng máu đó chúng tôi đều quý như nhau”. Bác thấu hiểu được “Không có trận đánh nào “đẹp” cho dầu thắng lợi lớn”. Ngày 7/5/1964 khi trả lời phỏng vấn nữ phóng viên Pháp Danien Huynơben, Người nói: “Nhân dân Pháp trước đây đã ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam nay lại tỏ sự đồng tình và ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân miền Nam Việt Nam… Nhân dân Việt Nam rất biết ơn nhân dân Pháp về mối tình cảm đó”, còn đối với nhân dân Mỹ Người nhấn mạnh: “Chúng tôi không có xích mích gì với nhân dân Mỹ. Chúng tôi muốn sống hòa bình và hữu nghị với nhân dân Mỹ”.

Kết hợp nhuần nhuyễn văn hóa dân tộc và sự am tường phong tục tập quán các dân tộc trên thế giới tạo thành nghệ thuật ứng xử ngoại giao.

Với vốn hiểu biết sâu rộng về văn hóa, tâm lý, ngôn ngữ và phong tục tập quán của nhiều dân tộc cả ở phương Đông và phương Tây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm được những cách xử thế hợp lòng người, hợp từng hoàn cảnh, đối tượng cụ thể. Phong cách ứng xử của Người cho sự thấu hiểu sâu sắc và hòa mình vào phong tục tập quán mỗi quốc gia, dân tộc một cách tự nhiên nhất. Trong bữa tiệc do Thủ tướng Nêru chiêu đãi Bác có món thịt gà địa phương rất nổi tiếng. Người Ấn Độ khi ăn cơm không dùng thìa, dĩa mà dùng năm ngón tay để bốc thức ăn. Nhưng tại bữa tiệc quốc tế người ta phải dùng dao, thìa, dĩa cho lịch sự. Khi món thịt gà được đưa ra, các quan khách Ấn Độ có vẻ không quen dùng dao, dĩa. Người rất tinh ý đã nói với Thủ tướng Nêru: “Thịt gà phải ăn bằng tay thì mới ngon chứ còn ăn bằng thìa dĩa thì khác nào nói chuyện với người yêu lại phải qua ông phiên dịch”.

Phong cách ứng xử ngoại giao là biểu hiện đạo đức và nhân cách của mỗi con người, với Hồ Chí Minh đó là sự kết hợp hài hòa các giá trị truyền thống và hiện đại, sự kết tinh văn hóa ứng xử phương Đông và phương Tây, là hiện thân của chủ nghĩa nhân văn cao cả. Nhà thơ Xôviết Ôxíp Manđenxtam đã viết: “... qua cử chỉ cao thượng, tiếng nói trầm lắng của Nguyễn Ái Quốc, tôi thấy được ngày mai, thấy được viễn cảnh trời yên biển lặng của tình hữu ái toàn thế giới bao la như đại dương”.

Có thể thấy, nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ nét qua việc vận dụng những phương pháp phong cách ứng xử nhạy bén, linh hoạt, sáng tạo, mang lại hiệu quả cao trong hoạt động đối ngoại. Nghệ thuật đó còn thể hiện trong việc am hiểu và vận dụng nhuần nhuyễn “năm cái biết” (ngũ tri) của triết lý phương Đông: biết mình, biết người, biết thời thế, biết dừng, biết biến trong quan hệ quốc tế. Cố Thủ tướng Phạn Văn Đồng đã từng nhận xét rằng, “Hồ Chí Minh là con người biết mình muốn gì và đi đến đâu, biết tránh thác ghềnh, biết thắng quân địch... nắm vững nghệ thuật của điều có thể và không ngừng mở rộng giới hạn của điều có thể.”