Tác phẩm Bê Trọc của nhà báo Phạm Việt Long: Nhật ký chiến trường về một thời máu và hoa (Phần XIII)

Bê trọc, còn gọi là Chuyện đời thường trong chiến tranh, là tác phẩm của Phạm Việt Long, do Nhà Xuất bản Thanh niên xuất bản vào đầu năm 1999.

NGÀY 12/3/1972

Nghe tin hồi 9 giờ sáng hôm qua, thằng Muôn đã dẫn một trung đội Dân vệ và bọn nguỵ quyền ấp về khui công sự của chúng tôi. Chúng khui cái ngoài đồng trước. Không được gì, chúng liền đánh đá túi bụi thằng Muôn và trói lại. Tới chòm rừng, khi khui công sự thứ nhất, lựu đạn của chúng tôi gài nổ làm chết 2 lính, bị thương một lính và chết cha của tên ác ôn Đàm. Bọn lính cay cú càng đánh thằng Muôn dữ.

Đang đi từ rìa Tuy An xuống thì nghe súng nổ rộ phía Thành Sơn - rất gần chúng tôi. Lập tức, cả đoàn người lao nhanh về phía có súng nổ - nếu ở rìa, sẽ bị đội pháo. Chạy ra đồng, anh em du kích xách súng lao tới chỗ đang nổ súng, chúng tôi tạt qua trái một chút, chạy vào một xóm. Pháo từ đồi Mười bắt đầu câu tới. Nhìn thấy những chớp lửa kế tiếp bung ra ở rìa núi và những tiếng nổ ầm vang. Pháo cũng bắn đèn dù tới. Quả đèn dù lao vùn vụt trong không khí rồi nổ bung ra, sáng bừng lên.

pvl2-1660484263.jpg

.Đồng bào xã Hoài Châu phá đồn địch.

THƯ ĐỒNG CHÍ

Vũ Đảo. Ngày 12 tháng 3 năm 1972

Long, Chi thân mến!

Trước Tết, mình có viết thư cho Long, Chi thông báo một số tình hình ở nhà. Hôm vừa rồi nhận được thư của Long viết trước khi đi Hoài Nhơn. Đáng lẽ mình viết thư sớm hơn cho Long, Chi, nhưng vì bận họp lu bù, thành thử hôm nay mới viết được.

Tết năm nay ở nhà tổ chức tốt và vui hơn năm ngoái về vật chất cũng như về tinh thần. Suốt đêm giao thừa, anh em ở nhà thức trắng, đi thăm hỏi và chúc tết nhau, kẹo, cà phê, trà thuốc rôm rả. Mình cũng đi chúc tết khối dân vận, binh vận, đấu tranh chính trị cũng nhằm gây quan hệ lâu dài. Trừ Lý và Đồng nhận được thư gia đình, còn anh em ta chưa ai nhận được. có về báo cáo tình hình, mang số tin và ảnh về, ở nhà 10 ngày, lên đường 5/3. Lần này Quả về được anh em trong cơ quan, đặc biệt là Văn phòng - Quản trị lo chu đáo về ăn uống, cấp hàng tết, sổ sách, giấy, lương khô chu đáo, nên ra đi Quả phấn khởi lắm.

Đại hội chi bộ họp đầu tháng 3, bầu lại ban chi uỷ mới - anh Lê, bí thư - thêm anh Hồng, Khoa vào Ban mới.

Hội nghị liên hoan chiến sĩ thi đua toàn Ban cũng họp 2 ngày 10,11/3, rất có kết quả, có cổng chào, phòng triển lãm. Tiểu ban Thông tấn xã ta vinh dự có Việt Long được lựa chọn là chiến sĩ thi đua (trong tổng số 12 CSTĐ), được tặng thưởng Huy chương Giải phóng hạng nhất (mình giữ tặng phẩm của Long), 1 huy hiệu Bác Hồ... mình và Hồ Ca là cá nhân xuất sắc. Riêng Thông Tấn Xã được đề nghị khen thưởng Huân chương Giải phóng hạng hai. Đây là sự động viên, cổ vũ anh em ta rất lớn, càng làm cho anh em mình thấy vinh dự, nhưng trách nhiệm càng nặng nề hơn, phải vươn lên mạnh hơn nữa trong giai đoạn mới.

Hội nghị cũng đã phát động đợt thi đua mới từ nay đến 2/9, chia ra 2 đợt, đợt một sơ kết vào 19-5, đợt 2 từ 19-5 đến 2/9 thì tổng kết.

Phương hướng thi đua của toàn Ban: nỗ lực phi thường, xoáy vào nhiệm vụ chính trị, bám sát nghị quyết, bám sát thực tiễn, quyết đạt khối lượng công tác lớn nhất, chất lượng cao nhất, tốc độ nhanh nhất. Phải thực hiện "3 hoá": chuyên môn hoá nhiệm vụ, kế hoạch hoá công tác và hợp lý hoá lao động...

Phương hướng cụ thể của Tiểu ban ta:

- Nâng cao chất lượng tin và ảnh (sát nhiệm vụ chính trị, kịp thời, chính xác, bảo mật).

- Phản ánh toàn diện (3 quả đấm trên 3 vùng chiến lược).

- Xây dựng hệ thống Thông tấn xã ở tỉnh, mạng lưới thông tín viên, hệ thống đài minh ngữ...

Cuộc vận động thi đua này phải gắn liền với cuộc vận động nâng cao chất lượng đảng viên...

Sau khi nhận được thư này, Long và Chi cũng trao đổi và lập chương trình thi đua, kiểm điểm kết quả đăng ký nâng cao chất lượng đảng viên... và lập đăng ký trong năm nay và gửi về nhà; đồng thời quá trình công tác, tích luỹ nhiều kinh nghiệm trong thực tiễn, Long và Chi cũng hình thành dần bản báo cáo về đợt công tác này, giữa tháng 5 thì về báo cáo chung trong Tiểu ban để trao đổi kinh nghiệm, học tập lẫn nhau, để làm tốt công tác hơn nữa

Cơ quan cũng vừa nhận được điện báo là TW đã gửi vào một số hàng theo yêu cầu. Đợt này, bộ phận ta có máy phóng và một số phim, thuốc, giấy ảnh. Sắp tới cơ quan sẽ cử người đi đón nhận. Bác Tân mà về chậm là "lạc hậu" với tình hình đó.

Anh Phượng cũng đã điện vào hỏi mình xin bao nhiêu dép cao su, kính đeo mắt... mình đã kê xin cho cả 2 bạn, mỗi người một đôi loại số 39, chưa biết là có vào đến nơi không? Mình đoán có lẽ anh em ta vào sẽ áp tải vào thôi, và như vậy là khi nào Long, Chi về cũng gặp anh em mới vào thôi. Chắc lần này sẽ nhận được thư của gia đình.

Thế Kỷ cũng vừa gửi thư cho mình, gửi lời hỏi thăm Việt Long và tỏ ý cảm động khi nhận được thư Việt Long.

Anh em ở nhà biết tin Việt Long bị mất tiền cũng chia sẻ niềm "bất hạnh" đó.

Riêng mình thì cũng chia sẻ niềm "bất hạnh" đó, nhưng nhắc lại với Long và Chi rằng: trong sinh hoạt phải hết sức gọn gàng, ngăn nắp và quân sự hoá để tránh những việc đáng tiếc lớn hơn nữa cơ.

Thôi nhé, chúc Long, Chi thành công trong nhiệm vụ mới.

Rất thân thương.

Vũ Đảo

NGÀY 13/3/1972

Muốn đi từ rìa Hoài Sơn này xuống núi phải đi bán hợp pháp. Thảo và Thiệu đứng nhìn xuống đồng, thấy 2 cô gái đi ra. Hai chiếc nón trắng đang nhấp nhô trên đồng, đột ngột hạ xuống thấp rồi lại trồi lên, nhấp nhô. Thiệu gọi chúng tôi đi xuống. Ra tới đường lớn thì gặp hai cô gái gánh đôi giỏ đi tới. Vào một xóm nhỏ thay đổi hình thức. Các cô đưa chúng tôi nón lá, ni lông, cuốc, còn chúng tôi cởi quần dài, đưa bao súng cho các cô gánh. Thảo - xã đội phó - mặc chiếc áo trắng, đội chiếc mũ phớt trắng, bị các cô cười ầm lên, kêu là “ấp trưởng”. Cậu ta băng ra đồng, bóng cao lêu nghêu nổi bật lên giữa đồng lúa xanh thắm. Đứng chờ ở xóm, thỉnh thoảng cho một, hai người đi ra - không nên đi đông, vì địch rất gần, chúng dễ nghi ngờ.

Chiều, tập dượt cách tổ chức quần chúng đi nổi dậy. Tập trung được khoảng hơn 100 người, có gậy, dao, dây. Có những người ở gần chốt điểm địch cũng đến. Trong hoàn cảnh một xã có 11 thôn mà có 14 chốt địch và 2 tiểu đoàn Cộng hoà đang hành quân lùng sục như hiện nay, tập trung được như vậy thể hiện sự cố gắng lớn của cán bộ và tinh thần cách mạng cao của quần chúng.

NGÀY 14/3/1972

Tôi, Hà Huệ (phóng viên quay phim) và Khanh (cán bộ Huyện) cùng nằm một công sự. Ngủ một giấc tới gần 7 giờ sáng. Đột ngột thức dậy vì thấy ngột ngạt quá. Tôi thấy mũi hơi nóng, ngực hơi nặng. Còn Huệ thì thở ào ào, mồ hôi toát ra đầm đìa. Không khí mỗi lúc một nặng hơn. Huệ kêu: “Ngợp quá!”. Khanh quạt “phành phạch” một lúc rồi cũng nằm im, thở phì phò. Tôi cầm miếng bìa, quạt mạnh về phía lỗ thông hơi. Thấy vương vướng, tôi đưa tay sờ thấy đầu Huệ đã trồi lên sát miệng lỗ thông hơi. Tôi đẩy anh ta lui xuống và quạt mạnh. Không khí có nhẹ đi chút ít. Huệ thở nhẹ đi chút ít.

Nằm lắng nghe, trên mặt đất vẫn lặng lẽ. Huệ nói:

- Có lẽ chị Tám đi chợ mất rồi. Chà, chị ấy đi tới trưa thì chết mất!

Lát sau, Huệ lại nói hổn hển:

- Hôm nay sao ngợp hơn hôm qua. Chắc chị Tám đậy nắp hầm chặt quá!

Tuy đang mệt, nghe Huệ nói vậy, tôi cũng không tài nào nín được cười. Bậm môi, cắn răng lại, tiếng cười vẫn bật ra. Huệ nói thật là kỳ cục. Nắp hầm lúc nào chẳng phải đậy chặt, đậy kín - thậm chí phải lấp thêm đất, phủ rơm rác lên. Tôi hiểu rằng trận mưa ngày hôm qua đã khiến đất cát, rơm rác trôi xuống làm nghẹt lỗ thông hơi.

Huệ nằm im, thở dữ dội. Tôi cố thở sâu, theo nhịp và ra sức quạt. Đã có trường hợp chết dưới hầm vì thiếu không khí. Chết vì thiếu không khí thì đau khổ biết chừng nào, bởi vì không khí tràn đầy cả trái đất, không khí hào phóng đối với tất cả các loại sinh vật, không khí có bủn xỉn đâu? Nhưng lúc này đây thì rõ ràng là thiếu không khí. Phải giành lấy không khí mà sống. Cách tích cực nhất là quạt, quạt cho mạnh để lùa cácbonníc trong hầm ra, hút không khí trong lành từ bầu trời vào.

Gần mười giờ rồi. Nghe những bước chân rậm rịch trên mặt đất. Có tiếng chân bước lại gần miệng hầm. Một luồng ánh sáng ập xuống, kéo theo những hạt cát rơi thoang thoáng như mưa bụi. Và không khí, không khí rơi xuống, không khí bay xuống, không khí tràn xuống, không khí ùa tới bọc kín chúng tôi làm chúng tôi tỉnh táo lại.

Cửa hầm vừa nhấc lên, Khanh đã nhỏm dậy, nói:

- Ngợp quá chị ơi!

Chị Tám nói vọng xuống:

- Hôm nay không có lấy một chút gió!

Chị cúi xuống dặn dò:

- Mở nắp ra cho thoáng chứ không lên được đâu. Lính đi cùng ngang hết.

Chúng tôi nằm xuống theo lời chị. Lúc này, chị là vị chỉ huy tối cao của chúng tôi. Cuộc sống của chúng tôi nằm trong tay chị. Khi xuống hầm, tức là anh đã trao cuộc sống của anh cho người đậy nắp hầm. Người đó thông minh, ngoan cường, thì anh được sống, sống dễ chịu. Còn người đó nhút nhát thì có khi anh bị nhốt dưới hầm cả ngày, có khi bị địch khui công sự. Trường hợp bị địch khui công sự vì người đậy nắp nó phản bội, khai báo rất hiếm có. Nhưng trường hợp bị nhốt cả ngày, tối mới lên thì nhiều. Chị Tám không vậy. Biết chúng tôi nằm dưới hầm rất mệt, chị để gần sáng mới đậy nắp hầm và luôn coi chừng, khi địch dãn ra là mở nắp cho hầm thoáng.

Tới trưa thì chị gọi chúng tôi lên ăn cơm. Thằng Ửng - con chị - đi cảnh giới về cũng bưng chén cơm ăn ngon lành. Con Ánh chạy ra ngõ làm nhiệm vụ thay anh nó. Chị Tám kể:

- Sáng nay tụi lính bắt đồng bào vô điểm gánh đồ cho chúng chuyển quân. Chút nữa nó bắt tôi - lo quá, nó bắt cả ngày, để các anh nằm dưới đó tội chết. Tôi vội lẩn đi, về được.

Hơn 2 giờ chiều, anh Đức tới. Anh mặc chiếc áo trắng, quần đùi trắng, bưng một cái rổ - đựng cái thắt lưng, khẩu súng ngắn. Huệ thay bộ quần áo đen của mình bằng một bộ quần áo trắng - kiểu của người già. Chiếc máy quay phim của anh đựng trong một cái túi, do thằng Ửng xách. Lúc này, bọn lính đang rập rình ở cái nhà tôn trước mặt - cách mấy đám ruộng. Anh Đức vạch rèm cửa, nói:

- Tôi đi đây này. Anh Huệ cứ theo tôi!

Ba người bước đi, còn tôi và Khanh thì tìm cách xuống công sự. Nhà chỉ có một cửa, phía trước lại có lính, làm sao ra khỏi nhà để xuống hầm được? Chúng tôi đang lúng túng thì chị Tám dựng một cái nong, bảo chúng tôi núp phía sau. Chị Tám lăn cái nong qua giữa sân. Chúng tôi lom khom núp sau cái nong ấy mà đi...

Xế chiều, nghe chị Tám gọi, tôi vội chui lên. Chưa kịp đứng thẳng người thì đã nghe một cô gái nói lớn:

- Lính lên kia!

Lại chui xuống. Chị Tám nhanh chóng nghi trang công sự. Lại nằm trong một khối đen đặc. Cũng may, lúc nghỉ, tôi đã moi ở 2 lỗ thông hơi mấy vốc cát nên đỡ ngột ngạt.

Nghe tiếng nhiều bước chân chạy rậm rịch trên mặt đất. Có những bước chân dậm thình thịch ngay trên nóc hầm và tiếng người nói lao xao.

Nghe chị Tám nói lớn ở phía xa: “Mía của tôi từng ấy mà nó cũng bẻ nó ăn”. Chúng tôi hiểu rằng bọn lính đang đứng trên nóc hầm, bẻ mía của chị Tám - những cây mía mới lớn bằng ngón chân cái - mà ăn. Chúng tôi nằm im thin thít.

Gần 6 giờ, chị Tám bật nắp hầm, gọi:

- Để đồ dưới đó, lên nhanh!

Cô Bảy - du kích - đã chờ sẵn, giục:

- Cởi quần dài, đội nón, theo tôi mau!

Chị Tám vừa nghi trang lại công sự, vừa nói:

- Thôi, giao cho cô đấy, tôi xong trách nhiệm.

Trong khi tôi cởi quần dài thì Khanh mặc vào một cái áo trắng cũn cỡn. Riêng tôi, vẫn phải mặc chiếc áo mầu bộ đội, vì không có cái nào để thay. Chúng tôi rảo bước theo Bảy. 120 thằng lính nguỵ đang tràn lên. Bên trái, bên phải, đằng sau đều có lính. Đi qua một ngôi nhà nhỏ, thấy một ông già đang cuốc vườn, Bảy nói với ông:

- Bác cho cháu mượn cái áo!

Ông già cởi vội cái áo bà ba đen đang mặc, móc túi lấy lại chùm chìa khoá, rồi đưa áo cho Bảy. Cô đưa tôi mặc trùm lên cái áo mầu bộ đội cho địch khỏi chú ý. Lại đi qua các xóm nhà. Tới đâu, cũng thấy đồng bào đứng dặn: “Cẩn thận nghe” và nhìn chúng tôi bằng cặp mắt vừa thương yêu, vừa ái ngại, lo lắng. Bước ra đồng, Bảy dặn:

- Nếu xóm trước mặt có lính thì tạt mau ra đồng nghe!

Nhìn ở đồng, phía nào cũng có những cô gái đi qua đi lại như thoi đưa. Đó là những cô du kích xã. Họ đi như vậy để quan sát địch và yểm trợ cho chúng tôi. Tôi yên tâm bước theo Bảy.

Xóm không có địch. Vào ngồi ở nhà một bà già. Bà hỏi:

- Ăn cơm chưa? Vào ăn!

Bà đi dọn cơm, giục:

- Cứ vào ăn đi con, không sợ đâu.

Bà gọi mấy đứa nhỏ ra ngoài cảnh giới.

Lúc tôi chan nước cá, bà bảo:

- Đừng ăn nước, ăn cái đi con, gắp cá ăn đi chớ.

Bà vừa ngồi coi chúng tôi ăn, vừa kể:

- Bữa mình đánh mìn nó chết 1, bị thương 4, nó kéo tôi ra đánh nhừ đòn. Mình cũng ráng chịu chớ biết làm sao.

Bà chép miệng:

- Trước kia ở đây vui lắm, tối nào bộ đội cũng về cõng gạo. Thiệt tội, mấy đứa, đứa nào cũng vui vẻ, dễ thương cả. Đi từ trên núi xuống đem từng trái ươi chia cho lũ nhỏ. Bao giờ lại được vui như thế nữa.

Một ông già đi chậm rãi từ sân vào. Bà già chỉ ra, nói:

- Bữa trước nó cũng đánh ông ấy không đi được. Uống thuốc miết, bây giờ mới đi được như vậy đấy.

Ông già gọi chúng tôi lên nhà chơi. Ông bảo tôi:

- Chú cũng người nghĩa vụ hả?

Tiếng “nghĩa vụ” chỉ anh em miền Bắc.

Ông tiếp:

- Anh em nghĩa vụ với tôi như con với cha.

Ông lại chỉ ra sân:

- Khu trục Mỹ thả bom giết chết 3 đứa con tôi tại đây - hai đứa ngồi trong hầm, một đứa ngồi bên thềm. Khi ấy, nhà còn lớn lắm chứ không nhỏ như bây giờ.

Ở mảnh đất này, đau thương, căm thù và yêu thương thể hiện rất rõ ràng, rành mạch.

Ngoài sân, mấy đứa nhỏ đang dỡn nhau. Chúng ném những miếng nhựa trắng bọc đầu đạn M79 rồi đuổi theo, giành nhau, cười.

NGÀY 15/3/1972

Xuống Tam Quan. Vượt đường số một khá dễ dàng. Qua từng thôn đều có du kích dẫn chuyền. Tới địa phận Tam quan thì có 2 cô gái dẫn tôi đi. Từ đây bắt đầu có hơi hướng của biển. Gió thổi về nghe nồng nàn, hào phóng. Lội qua những con sông nước mặn làm sủi lên những bọt lân tinh sáng xanh trong. Mặc dù 2 cô gái xắn quần cao, tôi cũng không thể nhìn thấy mầu trắng của đôi chân vì trời tối quá. Chỉ nhận thấy hai đôi chân ấy qua những bọt lân tinh sáng xanh. Những bọt nước ấy sủi lên từ bàn chân tới ống chân, tạo thành những khối lân tinh đẹp như ngọc bích. Tôi có cảm tưởng rằng đôi chân của hai cô chính là ngọc bích được tạo hoá tạo thành những hình khối diệu kỳ, vừa có cái mãnh liệt của cuộc sống, vừa có cái huyền ảo của thần thoại.

Tới một xóm nhỏ bên sông, tôi được anh em du kích dùng thuyền chở đi. Mái chèo làm những bọt lân tinh xao động, nhảy múa. Nép vào những hàng cây đước dọc bờ sông bơi thuyền tới chứ không dám đi giữa sông vì sợ địch phát hiện.

Tới bờ, Thu dẫn tôi đi. Anh dặn rất cẩn thận là phải theo sát anh, nếu không kịp thì đứng lại, anh sẽ quay lui đón chứ đừng đi lung tung vì ở đây gài rất nhiều đạn pháo, cối. Ở cái xóm tôi vừa đi qua, hôm trước một đại đội Cộng hoà đổ quân xuống càn bị vướng lựu đạn chết 3, bị thương 1. Chúng hoảng sợ đứng tại chỗ gọi máy bay vớt đi, không dám lùng sục tìm khẩu súng bị mất bữa trước.

Đi dưới những hàng dừa tư lự. Thu đi rất nhanh. Thỉnh thoảng anh lại đâm sầm vào một cành tre rấp ngang đường. Anh cằn nhằn rồi ráng sức dỡ cành tre lên, đi qua. Có lẽ anh em rấp đường để hạn chế địch đi tập kích. Đi qua đi lại nhiều nhà rồi cũng tìm thấy Thưa - bí thư xã.

Tối thui, chỉ nghe tiếng nói của nhau. Thưa bảo tôi cứ cột võng ngủ, sáng hẵng hay. Vừa nằm được một lúc thì nghe một tiếng mìn nổ ầm, tiếng súng nổ ran. Thưa kêu: “Thôi rồi, chết ông Thởng rồi”. Tất cả trở dậy, ra sân nhìn. Địch bắn đèn dù sáng rực. Quả đèn này vừa tắt, đã nghe tiếng cối 60 nổ ùng, thấy một đường lửa đỏ mờ rạch trên bầu trời rồi bung ra thành một ngọn đèn lớn. Thưa cứ than thở mãi: “Thôi chết ông Thởng rồi! Đúng hướng ông Thởng đi, ổng chớ ai!”. Anh gọi một du kích bảo rủ thêm người tới ngay nơi mìn nổ xem sao.

NGÀY 16/3/1972

Vào một xóm của thôn Công Thạnh. Ở đây tập trung rất nhiều cán bộ "bất hợp pháp" (cán bộ cách mạng thoát ly). Chị Cẩn - bí thư chi bộ Tân Thành - người mập trắng, vui tính, hay nói đùa. Chị rất sốt sắng kể chuyện đấu tranh của đồng bào cho tôi nghe.

Đi tới các cửa ngõ đều gặp những thanh niên nam nữ cầm lựu đạn, súng tiểu liên đứng cảnh giới. Chính những cô cậu đó đã nhiều lần ném lựu đạn diệt địch giữa vùng chúng kiểm soát. Một thanh niên chừng 17, 18 dẫn tôi đi kể chuyện rằng mới đây cậu ta liệng lựu đạn làm chết 2, bị thương 1 tên địch giữa ấp Tân Thành. Ham diệt địch, cậu liệng lựu đạn quá gần làm chính mình cũng bị thương nhẹ. Ngay lúc đó, đồng bào đưa cậu về nơi an toàn.

Hai cô gái dẫn tôi về thôn An Thái. Tới bờ một con sông, một cô nói: “Đồng chí cởi quần dài choàng lên cổ, lại lội sông nữa!”. Từ hôm qua đến nay, tôi đã qua 5 con sông rồi. Đây chính là “quê hương 9 áo 1 quần”. Lội ra giữa sông, cô Mới ré lên một tiếng và cười khúc khích: “Cua cắn em”. Cô tạt nước vung lên trời cho rơi xuống lộp bộp rồi quay lại tôi: “Mưa đấy anh” và lại cười. Cô Lan đang khoác súng im lặng đi, cũng chợt kêu lên: “Cua cắn chân”. Còn tôi thì chỉ nhìn thấy phía trước 4 khối ngọc bích sáng xanh đang chuyển động. Hai cô vừa đi vừa nói, giọng nói rất dịu dàng, nghe có phần hơi kịch: “Anh nghe lời em nhé. Vì ai mà xóm làng tan hoang, có phải vì giặc Mỹ không anh?”. Có lẽ hai cô đang tập nói binh vận.

Đi qua một cánh đồng rộng hoang vu, mọc đầy cỏ tranh. Con đường nhỏ mấp mô. Mỗi lần qua một chỗ khó, Lan lại quay lại nhắc tôi: “Đồng chí bước vào chỗ này này, đừng bước lên chỗ ấy, ngã đấy”. Vào một túp lều nhỏ. Mới bảo tôi bật máy lửa lên. Vừa nhìn thoáng thấy ngôi lều trống trơn không một chút đồ đạc, Mới đã kêu: “Tắt đi anh!”. Mới nói nhỏ: “Hay là địch tập kích, mấy anh dọn đồ đi hết?’.

Lúc này, chỉ còn Lan khoác súng dẫn tôi đi. Cô không gọi tôi bằng “đồng chí” xưng “tôi” nữa. Cô nói: “Nếu không có anh, em cũng về một mình thôi. Trước đây em sợ ma lắm, nhưng bây giờ quen rồi. Làm cách mạng mà sợ gì?”. Cô rất cởi mở kể chuyện gia đình bằng giọng nói trong, êm, khá dễ chịu. Cô khoe:

- Gia đình em đi cách mạng hết, không có ai làm cho địch. Mới rồi, bọn địch bắt anh Sáu em vào Nghĩa quân, đưa đi tận Phù Cát. Nhưng ảnh nói ảnh sẽ tìm cách về.

Lan tiếp:

- Em đi công tác, má em rầy la hoài. Bả nói chỉ còn bả với anh em cụt chân ở nhà, lấy ai gánh nước, giặt đồ. Bả doạ chụp cổ em cạo hết tóc. Nhưng em vẫn cứ đi. Hồi đầu hợp pháp, nhưng sau tụi ấp về kiếm bắt, em chạy bất hợp pháp rồi vào du kích xã luôn.

Tôi hỏi:

- Em bao nhiêu tuổi rồi?

Cô trả lời và kể luôn:

- Em 19 tuổi. Có người đã đến nói em, má em nhận lời nhưng em không chịu, em đem trả lễ. Bởi vì người con trai đó không chịu đi làm cách mạng, ngày ngày cưỡi Honda đi chơi. Em bảo anh ta đi làm cách mạng, anh ta nói sợ khổ, không dám đi. Em liền hỏi: “Khổ là khổ thế nào?”. Anh ta trả lời: “Khổ là nằm bờ nằm bụi, ăn uống thiếu thốn”. Em lại nói: “Anh chỉ nhìn thấy cái khổ trước mắt mà không thấy cái sướng lâu dài. Đi làm cách mạng có cái vinh dự là người cầm súng bảo vệ đất nước, đấy là cái sướng nhất”.

Lan kết luận:

- Sau này, có lấy chồng, em cũng lấy anh em cách mạng thôi!

Tôi hỏi:

- Từ ngày vào du kích, em đã đánh trận nào chưa?

Vừa lúc ấy, một quả đèn dù nổ bụp ở hướng Đông. Lan chỉ về đó:

- Có chứ, đánh ở chỗ thả đèn dù ấy. Mật tập anh à. Nhưng em chỉ được đánh một trận thôi, còn chủ yếu là bám tuyến dẫn khách.

NGÀY 17/3/1972

Cả vùng An Thái chưa xoá sạch dấu tích của sự hoang vu. Hồi tháng 8/1970, 36 xe ủi và gần 200 xe quân sự Mỹ nguỵ đã tập trung cày ủi nơi này. Giờ đây không còn một bóng cây to. Chỉ có những đám điền thanh và bãi cỏ tranh mênh mông. Xen vào đó, lưa thưa những túp lều. Từng chòm, từng chòm có những khóm chuối, bụi mía, vườn rau. Lúc này đã cuối mùa rau rồi. Rau cải, rau cúc đều đã ra hoa vàng tươi hoặc đã kết quả lăn tăn. Những cây cà chua đầy những quả xanh và những bông hoa vàng. Một đoá hoa hồng bẽn lẽn nép bên đám cỏ, nở nụ cười hồng tươi. Gió thật tinh nghịch, chọc ghẹo hết thảy cây cỏ làm chúng cười xào xạc mãi.

Anh Nở - bí thư chi bộ - có đôi mắt hơi mờ, đục, dáng chậm chạp, nói chậm chạp. Anh có vợ và 6 con. Lúc này, anh chỉ còn 4 đứa con gái tuổi 13, 14 trở lại. Anh nói:

- Có 6 đứa, nhưng đất nước mới chia một đứa, Mỹ cướp một đứa, còn bốn.

Anh dẫn tôi ra một nơi vắng vẻ, giữa đồng không mông quạnh mà làm việc. Qua câu chuyện, cho thấy anh nắm rất chắc địa bàn, địch, ta. Tại thôn An Thái nhỏ bé này, địch tập trung đủ các loại lực lượng để kìm kẹp dân. Thường xuyên có 1 đại đội Cộng hòa, 6 cố vẫn Mỹ,1 trung đội cảnh sát, 1 đại đội Bảo an, 2 đoàn Bình định, 3 toán Thanh niên chiến đấu, 3 toán Phòng vệ dân sự, 12 tên ngụy quyền xã, 4 tên ngụy quyền thôn, có lúc lên đến 1 tiểu đoàn Cộng hòa, 1 trung đội Mỹ. Hiện nay, chúng vẫn duy trì lực lượng như trên, đóng 5 chốt điểm, tăng cường 1 đại đội Bảo an. Đồng bào ở đây chủ yếu sống bằng nghề nông, nghề buôn. Trước đây, vì nơi này có thị trấn Tam Quan, có đường số một chạy qua nên dân số khá đông - gần 4.000 người, nhưng do chiến tranh, chạy tứ tán, nay chỉ còn trên 2.000 người. Từ trước tháng 4 năm 1971, phong trào còn yếu, cán bộ không trụ bám tại chỗ được mà chỉ bám quanh rìa, nhưng từ tháng 5 năm 1971 đã bám được. Các đồng chí Trì, Tiếp, Khánh, Tăng, Thảo gài đạn pháo 2 lần diệt 19 tên Bảo an, làm bị thương 7 tên. Địch phải co lại. Tuy nơi này cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt, nhưng cán bộ không một ai đầu hàng, đầu thú, chỉ có một số ít bỏ việc, trốn đi vùng khác làm ăn. Hiện lực lượng ta có 7 đảng viên, 30 cán bộ, 12 đoàn viên, 1 đội du kích thôn, 5 tổ gồm 15 du lích mật. Tuy lực lượng ít, ta vẫn luôn luôn bám tuyến, diệt địch, hỗ trợ đồng bào đấu tranh.

Nghe tiếng súng nổ gần, tiếng trực thăng quần lượn, Nở đứng dậy nghển cổ nhìn, rồi nói: “Đi ra công sự”. Anh dẫn tôi đi vòng vèo trong bãi tranh, tới một nơi có mấy cây điền thanh mọc cụm lại, chỉ xuống đất, nói: “Ngồi xuống đây”. Chúng tôi lại tiếp tục làm việc. Anh dặn tôi đạp nhẹ chân, đừng để lại dấu vết. Có lẽ công sự nằm quanh đây, nhưng tất nhiên tôi không thể phát hiện ra nắp nó.

Chừng 9, 10 giờ, anh lại dẫn tôi về nhà. Chị vợ anh đã đi chợ về, đang ngồi bó rau muống. Con Sáu đang đau, ngồi cù rù cạnh mẹ nó. Con Bốn đang ngồi chặt cây cải giống. Hồi nãy, con Bốn và con Năm cứ đánh bi ăn cõng với nhau miết. Hễ đánh trúng 3 lần liền là được cõng. Con Năm luôn ăn gian, dúi hòn bi vào sát hòn bi của con Sáu mà đánh, làm con Sáu phải cõng hoài. Chúng không được đi học và cũng chẳng có trò chơi gì hấp dẫn hơn trò chơi ấy, nên mặc dù phải cõng chị nặng tới ngã dúi xuống, con Sáu vẫn cười như nắc nẻ. Xen vào tiếng cười của chúng là tiếng máy bay trực thăng bay phành phạch rất thấp.

Anh Nở lại đưa tôi qua ngồi ở một nhà khác, dặn:

- Anh cứ ngồi đây, có chuyện gì tôi sẽ chạy tới. Ngồi đây kín hơn, chạy dễ.

Anh tranh thủ ra cưa hom trồng sắn. Tuy bị thương nhiều lần, sức yếu, mắt mờ đi, ống xương tay trái bị mẻ một miếng lớn, anh vẫn có cái rắn chắc của người nông dân. Đám đất mới thu hoạch rau xong được anh xới tung lên, vun thành từng vồng thẳng tắp. Chị Nở đang gánh một gánh rau muống nặng trĩu, kĩu kịt đi tới.

Chiều tối, đi về phía ấp công tác. Vẫn đi qua cánh đồng. Loại cây trồng lớn nhất, nhiều nhất ở đây là chuối. Thỉnh thoảng mới có một cây dừa cao vút, lá tơi tả. Có những cuộn dây thép gai bùng nhùng bò lạc lõng trên đồng, đã bị mưa gió làm hoen rỉ. Cách không xa lắm là khu dồn và đồn địch với những mái nhà tôn và mấy cái pha đèn loá nắng. Một con kênh nhỏ nước chảy lặng lờ với cái cầu sắt bắc ngang bị gẫy gục, rỉ đỏ nhem nhuốc. Muốn qua con kênh ấy phải leo lên những cây đước. Những cây đước thật lạ, cành, rễ nghênh ngang mọc kín cả mặt kênh, tạo thành những cái cầu cheo leo. Qua kênh, đi vào một cánh đồng lúa nhỏ. Những khóm lúa lùn nở to, cây mập, xanh đậm đà.

NGÀY 18/3/1972

Đang ngủ say thì giật mình choàng dậy vì tiếng đạn cối nổ. Hị nói: “Coi chừng nó tập kích”. Tất cả trở dậy cuốn võng, thu dọn đồ rồi vào hầm núp. Tiếng cối 60 vẫn nổ “Pốc... đùng! Pốc... đùng!”.

Nở dẫn tôi tới công sự. Có khả năng địch càn. Đi một hồi, rẽ vào một đám đất, Nở ngồi xuống. Lát sau anh than thở: “Chết cha rồi, họ đào củ ngay trên nắp hầm mình!”. Anh dẫn tôi tới một công sự khác. Chỗ này, nhiều người tới lui quá nên đất bị mòn thín đi, địch dễ phát hiện dấu vết. Nở lại dẫn tôi về công sự hồi nãy. Anh ngồi thừ một lúc rồi đứng lên, nói: “Không được, không được! Đất mới quá, phải có người nghi trang chứ không tự nghi trang được”. Nở thật là cảnh giác. Anh bảo tôi xuống hầm rồi đi kêu một anh khác xuống ở cùng. Còn anh thì đi cảnh giới.

Hầm hơi chật nhưng có tới 4 lỗ thông hơi rộng nên rất thoáng, mát. Tới 10 giờ nghe 3 phát súng nổ liên tiếp, anh Sáu nói: “Nó rút đấy!”. Lát sau, nghe có tiếng gõ đều đều trên miệng hầm và tiếng anh Nở gọi: “Lên hử”.

Hồi sáng sớm, địch cho 20 tên mò lên nhưng chỉ ở ngoài tuyến. Chúng gây nên những đám cháy ở gần, khói ùn ùn bốc lên.

NGÀY 19/3/1972

Dự đại hội Đảng uỷ xã. Lúc giải lao, chợt nghe một tiếng nổ ầm. Chị Cẩm kêu: “Chết rồi, mìn mo”. Một loạt súng rộ lên, có kèm cả tiếng M.79 “Tập kích! Tập kích!”. Mọi người vội vàng vơ đồ đạc, chạy về phía đã định trước. Cũng may, tôi đã khắc phục được tính luộm thuộm, đồ đạc để gọn trong một bao nên không bị thất lạc gì.

NGÀY 21/3/1972

Tiểu đoàn một Cộng hoà càn ở An Thái. Chúng đốt cỏ cây cháy rừng rực suốt ngày. Chúng bắt một ông già dẫn đường. Tới một khu vực, ông già ngồi lại, nói:

- Ở khu vực này Cộng sản gài nhiều lựu đạn lắm, tôi không biết đường. Các ông đi thì đi!

Bọn địch lướ quớ mò đi. Một quả cối 81 cải tiến nổ tung làm chết hai tên, bị thương một tên.

Khắp nơi trên xã này đều cắm những bảng cấm địa. Khi địch tới, những bảng ấy lập tức biến mất và đất dưới chân chúng trở thành bom mìn giết chúng.

Ngày nào địch cũng có chết lẻ tẻ 2, 3 thằng. Khi thì bị du kích mật dùng lựu đạn đánh. Khi thì bị xuông mìn, lựu đạn. Hôm chúng tập kích chúng tôi ở Xuân Lạc, chính chúng bị xuông lựu đạn chết 3, bị thương 1 chứ không phải chúng đánh mìn như chúng tôi tưởng. Du kích đang gác, thấy nổ liền trốc M.79, quạt tiểu liên qua. Bị thất thế, mấy thằng còn lại lặng lẽ rút lui.

THƯ ĐỒNG CHÍ

Ngày 1/4/1972

Thân gửi Long, Chi, Tân.

Trước tiên, mình báo để Long và Chi biết là thời gian về không phải như trước là tháng 5 mà khi nào có điện gọi về thì về. Như vậy là nếu có người trong Tuyên huấn ra lĩnh máy, tin cậy thì gửi phim ra. Còn anh Tân thì cũng cố xoay xở xem ở địa phương có người ra, cùng với Nên, mang máy móc về làm. Ngoài này người phần thì đi công tác, người đi bổ sung theo yêu cầu phía trước, người ra Bắc xin hàng, nay lại thêm một số đi nhận hàng và sắp sửa đi chuyển hàng nữa. Thế là hết người. Mình được tin là máy phóng và phim, thuốc giấy đã vào. Ái cũng đã trên đường áp tải hàng vào. Dồn dập nhiều việc, đòi hỏi nhân lực khá căng.

Anh Huy Minh vừa gửi thư vào cho biết là đã gặp ông cụ của Việt Long, ông cụ phấn khởi nghe tin Long mạnh khoẻ, tiến bộ, gia đình vẫn khoẻ. Ông cụ có gửi cho Long lá thư đề ngày 1/11/1971 kèm theo bức ảnh của em Long là Việt, hiện đang đi Công an vũ trang.

Mình giữ một trong số nhiều ảnh hôm chúng ta chụp ở thôn Tư, anh Phò mang ra đưa cơ quan, nay phóng xong gửi vào. Chị Sáu có viết thư hỏi thăm anh em mình, (gửi tháng 9/1971), trong đó kèm một lô ảnh gia đình mình.

Anh Huy có đến thăm gia đình chị Hà ở Thuỵ Khuê, anh chị có hỏi thăm nhiều về anh Tân.

Còn Chi không biết có ai là người thương ở ngoài đó không thì không biết?

Hồ Ca đã về đến địa phương công tác, tương đối có nhiều thuận lợi, được gặp phần lớn cán bộ quê đều ở Bình Định. Hồ Ca ăn cái tết to nhất từ khi vào trong này.

Hữu Quả có tạt qua về nhà gần 10 ngày đưa một số tin và bài, mang một số phim ảnh của Hoàng Chung về, mình đã gửi anh Long (Huấn Học) ra chữa bệnh mang ra. Trên đường trở lại địa phương công tác, Quả bị sốt, phải nằm ở trạm mất ít ngày, nhưng Quả phấn khởi lắm.

Quảng thì hơn một tháng nay không viết thư về; tin tức cũng không thấy gửi về vì đường liên lạc bị đứt (do địch càn). Mình hỏi thăm thì thấy vẫn an toàn, nhưng phải lẩn hơi vất vả. Tình hình chỗ Quảng công tác có khó khăn về địch, khó khăn hơn chỗ các bạn công tác.

Mình và Chu vẫn khoẻ, đôi khi hơi bận vì Chu thỉnh thoảng phải đi gùi, sản xuất đột xuất, công việc ngày càng nhiều.

Ở nhà rất mong anh Tân về để làm một số ảnh phục vụ phong trào chung toàn miền. Khi về, nếu có thể được, anh Tân xin được phim thì càng tốt, nếu không thì chọn những ảnh có thể tuyên truyền được, chụp lại, để dùng triển lãm. Những ảnh đấu tranh của đồng bào trong các thành thị rất cần. Nhưng nhớ ghi cả chú thích cho rõ.

Ở nhà có nhận được thư của Tuyên huấn tỉnh gửi ra, nói về tinh thần làm việc của anh em mình tốt, ca ngợi sự tận tuỵ của anh Tân. Mình cũng rất mừng và tự hào về anh em mình. Anh em cố gắng phát huy thêm tinh thần công tác hơn nữa để xứng đáng với sự tin cậy của cơ quan.

Mình nhờ anh Tân, nếu có thể được và có điều kiện, mua giúp cho chiếc đài như chiếc đài anh mua cho Tứ. Đài của mình Chu lấy lại rồi.

À quên, xin báo cho Việt Long biết là "người cùng chụp ảnh với Long" đã lên đường đi công tác ở địa phương mà Quả hiện nay đang công tác, thời gian 3 tháng. Có gửi lời hỏi thăm anh em, nhất là Việt Long đó.

Các bạn nhớ luôn viết thư nhé.

Vũ Đảo

pvll-1660484364.jpg
Một trong các cô gái dẫn tôi di trong đêm Tam Quan. Cô này sống trong vùng địch, hoạt động cho quân Giải phóng nên được gọi là hoạt động hợp pháp. Kịp tặng ảnh nhưng không ghi tên nên đến bây giờ vẫn không nhớ tên cô gái đó!

NGÀY 5 - 8/4/1972

Một loạt tin chiến thắng từ Trị Thiên, Nam Bộ, Tây Nguyên đưa về làm náo nức lòng người. Nghe những bài tường thuật, ghi nhanh về những trận đánh cao điểm 544, gặp tù binh Huỳnh Thúc Mẫn... càng thấy chộn rộn, muốn được lao tới chiến trường, muốn được tận mắt thấy chiến thắng và được viết về những chiến thắng ấy. Đã tới lúc chúng ta giáng vào đầu kẻ địch đòn quyết định để giành chiến thắng.

NGÀY 9 - 11/4/1972

Tới làm việc ở Ban chỉ huy Mặt trận Tiền phương.

Tại đây, các bộ phận đều ở theo kiểu dã chiến - dựng khung, dăng tăng chứ không lợp lá, che dừng. Anh Ba, anh Lợi cũng ở như vậy. Tuy nhiên, vệ binh đã đào cho hai anh những căn hầm rất rộng, chắc chắn để chống phi pháo, có thể ngủ và làm việc dưới đó được.

Đủ các bộ phận phục vụ cho bộ não của chiến dịch: tham mưu, chính trị, đài 15 Wat, đài 2 Wat, K.63, cơ yếu, liên lạc, vệ binh... mỗi người đều bận túi bụi với công việc của mình.

Mỗi ngày giao ban 3 lần nên nắm tình hình rất chắc. Bao giờ cũng vậy, tới giờ giao ban là một tấm bản đồ quân sự lớn có đánh dấu sẵn được trải ra trên chiếc bàn lớn giữa nhà. Mọi người ngồi quây xung quanh, theo dõi. Một đồng chí phụ trách bộ phận “đài kỹ thuật” (đài theo dõi đài địch) đứng báo cáo tình hình địch qua theo dõi báo cáo của chúng: các vị trí đóng quân, hoạt động của địch, địch phát hiện ta. Rồi đến phần văn phòng báo cáo tình hình ta qua tin của địa phương. Rồi anh Lợi khái quát lại tình hình, nhận xét và ra chỉ thị. Anh là Thường vụ Khu ủy, còn có tên là Bảy râu. Anh cao to, râu quai nón lúc nào cũng cạo nhẵn, da hồng hào, trán hói, có giọng nói trầm trầm, chắc chắn, rất ít nói, nói rất ngắn, gọn. Anh thường ngồi chống hai tay vào cằm nhìn qua nhìn lại trên bản đồ, đôi lúc có vẻ lơ đãng nhìn lên trần nhà nhưng nắm rất chắc bản đồ và tình hình. Đôi khi báo cáo viên chỉ sai bản đồ hoặc nói lộn, anh chỉ lại, nói: “Sao còn thanh niên mà lẩm cẩm dữ vậy?”. Có lúc, báo cáo viên nói 12 xe bọc thép xuống An Túc mà chỉ tuốt xuống phía dưới, anh nói: “Sao ? Sao, xuống tới gần thị xã rồi à? Đang trông nó xuống mà không được đây!”. Khi chỉ thị về việc sắp tới, anh nói chậm - chậm như người đọc chính tả vậy.

Đêm 8 rạng 9-4, quân ta đã đánh Gò Loi - vị trí tiền tiêu của Hoài Ân, mở đầu cho hàng loạt trận tiến công dữ dội vào các vị trí địch trong toàn tỉnh. Địch phản ứng rất yếu ớt. Sau 29 phút, Gò Loi với một đại đội, ban chỉ huy liên đội Bảo an số 48 bị diệt gọn - chỉ sống sót một tên.

Anh Lợi đánh giá cao chiến thắng này. Gò Loi, từ khi Mỹ xâm lược tới nay, luôn là một vị trí tiền tiêu quan trọng của địch, nay là căn cứ tiểu đoàn địch, lực lượng địch được củng cố vững, gây tội ác dai dẳng, gom dân, kẹp quần chúng, khống chế cả một vùng từ Ân Hữu qua Ân Nghĩa. Với ta, Gò Loi là vị trí đầu cầu, làm bàn đạp để tiến công các vị trí khác. Cần kết hợp tốt điệt địch, chốt lại, tảo trừ địch, phát động quần chúng.

Những ngày sau, địch điều quân lung tung để đối phó: đưa tiểu đoàn một Cộng hoà từ Hoài Nhơn vào, bị diệt 2 đại đội, vội vàng dùng trực thăng bốc ra Thành Sơn (Hoài Châu) và điều Tiểu đoàn 3 thuộc Trung đoàn 40 vào. Các đồn khác bị bộ đội, đồng bào bao vây, đã bỏ chạy.

Trong vùng địch kiểm soát ở Hoài Nhơn, chúng giới nghiêm, không cho người nhà vào thăm lính, cấm nghe đài cách mạng. Chúng mở chiến dịch "Lòng mẹ", bắt gia đình cách mạng phải tập trung học tập. Chúng phát động quần chúng viết đơn tình nguyện di dân, ai đi đầu được chúng cấp 600.000 đồng. Nhưng du kích vẫn hoạt động - du kích Tam Quan Bắc kết hợp với binh sĩ ngụy làm binh biến diệt 12 tên.

Tuy quân sự đánh mạnh, nhưng do cán bộ địa phương không xáp nên quần chúng nổi dậy kém. Ngày đầu, đồng bào còn chui xuống hầm, để bò chạy ra đồng ăn lúa... Anh Ba, anh Lợi liền phái người xuống uốn nắn. Tinh thần chỉ đạo của Ban chỉ huy Mặt trận tiền phương là: Nhanh chóng phá các khu dồn, tấn công các đồn còn lại, thuần khiết nội bộ, xây dựng thôn xã chiến đấu. Liên tiếp tổ chức hội nghị cán bộ các ngành, giới của từng thôn với thời gian họp rất ngắn (từng đêm một) để hướng dẫn nhiệm vụ, cách làm việc. Không được tổ chức những cuộc họp dài ngày trong thời kỳ nổi dậy này. Với những thôn mới mở ra chưa có đảng viên, đoàn viên, thì lựa quần chúng tốt dự các cuộc họp này, hướng dẫn họ về cách phổ biến tình hình, chính sách, nhiệm vụ, phát động quần chúng, phát hiện và truy tróc tề điệp. Nhanh chóng dãn dân và tổ chức phòng không ở những khu vực đông đảo; nơi nào chậm trễ để dân bị thiệt hại thì cấp ủy nơi đó phải chịu hoàn toàn trách nhiệm. Với những nơi địch đang bỏ trống, phải nhanh chóng xây dựng thôn xã chiến đấu. Cùng với bao vây đồn bốt phải chiếm và phá các trục giao thông, bao vậy quận lỵ. Nhanh chóng khắc phục sự chậm chạp của công tác binh vận. Những ai làm việc cho địch đều phải trình diện. Tất cả mọi người đều tham gia các tổ chức cách mạng, ra sức phục vụ, liên tục tiến công. Tổ chức ổn định đời sống nhân dân: ăn ở, sản xuất, trật tự, vệ sinh, y tế, giáo dục, đoàn kết, tương trợ nhau. Kêu gọi binh lính về với nhân dân.

Nhiều đồn địch - trong đó có đồn đồi Xã - bỏ chạy. Đó là thiếu sót của ta. Yêu cầu bây giờ là phải tiêu diệt hoặc bức hàng. Anh Ba xuống Hoài Ân trực tiếp kiểm tra, chỉ đạo.

NGÀY 12/4/1972

Cần có những bài ghi nhanh ngắn, sôi nổi phản ánh khí thế hiện nay, tôi đi Hoài Nhơn.

Anh Lợi gặp riêng, dặn dò thêm tôi một số vấn đề. Ngoài việc đi viết, tôi còn phải truyền đạt một số ý kiến của anh cho Huyện uỷ và nắm tình hình về báo cáo cho các anh. Anh cho biết: Đêm nay sẽ tổng công kích. Hoài Nhơn sẽ đánh lớn, trong đó có Đồi Mười, thị trấn Tam Quan, Trung đoàn bộ Trung đoàn 40. Khi ta đánh mạnh, địch sẽ co về giữ quận lỵ, căn cứ và các trục giao thông. Ban chỉ huy mặt trận tiền phương chỉ thị cho Hoài Nhơn: Giải phóng đại bộ phận nông thôn, tiến lên giải phóng hoàn toàn địa bàn. Tám xã phía Bắc có phong trào cao, cần phát triển xuống phía Nam. Không trông chờ các cú đấm quân sự mà phải chủ động hoạt động, từng xã chủ động tổ chức binh vận, tấn công và nổi dậy cho kịp thời cơ. Truy bắt cho hết bọn điệp ngầm. Trong 2 ngày 1 đêm phải tổ chức đào xong hầm hố chống phi pháo, rào làng chiến đấu. Ngày đêm đều cho quần chúng thanh viện, phát loa uy hiếp tinh thần địch. Huy động hàng loạt thanh niên vào việc vận chuyển lương thực lên căn cứ cách mạng. Du kích phải đứng trên đường số một, cắm biển ghi rõ "Vùng giải phóng", hoặc "Quân Giải phóng đang kiểm soát". Tôi ghi chép đầy đủ ý kiến chỉ đạo của anh Lợi và lên đường.

Trạm giao liên nằm ở một nơi thấp, bị núi chắn nên đêm nay tôi không thể nhìn xuống đồng bằng mà xem những chớp lửa tiến công của ta được.