Xuất khẩu nông lâm thủy sản tăng mạnh trong 8 tháng

TH
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NNPTNT), sản xuất nông lâm thủy sản (NLTS) tiếp tục đạt được kết quả khả quan, xuất khẩu NLTS tăng mạnh với thặng dư thương mại 8 tháng tăng 94,6% so với cùng kỳ năm 2021.

Ngày 5/9, Bộ NNPTNT đã tổ chức họp báo thường kỳ báo cáo kết quả thực hiện phát triển ngành nông nghiệp, nông thôn tháng 8, 8 tháng đầu năm 2022. Bộ NNPTNT cho biết: Tháng 8, ngành nông nghiệp, nông thôn thực hiện kế hoạch trong điều kiện thời tiết diễn biến phức tạp.

Dịch bệnh trên gia súc, gia cầm được kiểm soát; giá vật tư, nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất nông nghiệp đã được khống chế đà tăng giá, giá một số đầu vào giảm nhẹ; nhu cầu tiêu dùng hàng NLTS trên thế giới tăng.

Nhờ vậy, sản xuất NLTS tiếp tục đạt được kết quả khả quan, xuất khẩu (XK) NLTS tăng mạnh với thặng dư thương mại 8 tháng tăng 94,6% so với cùng kỳ năm 2021 với 7 nhóm sản phẩm giá trị XK trên 2 tỷ USD.

 

Bộ NNPTNT tổ chức buổi Họp báo thường kỳ ngày 5/9/2022. (Ảnh: Hà Anh).

Cụ thể, trong 8 tháng vừa qua, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu (NK) NLTS ước đạt khoảng 66,2 tỷ USD, tăng 8,7% so với cùng kỳ năm trước (CKNT), trong đó, XK ước khoảng 36,3 tỷ USD, tăng 13,1% so với CKNT; NK ước khoảng 29,9 tỷ USD, tăng 3,9%; xuất siêu trên 6,3 tỷ USD, tăng 94,6% so với CKNT.

Tính chung 8 tháng, kim ngạch XK ước gần 36,3 tỷ USD, tăng 13,1% so với CKNT. Trong đó, XK nhóm nông sản chính gần 15 tỷ USD, tăng 7,4%; lâm sản chính trên 11,8 tỷ USD, tăng 6,2%; thủy sản trên 7,5 tỷ USD, tăng 35,3%; chăn nuôi 258,6 triệu USD, giảm 12,2%; đầu vào sản xuất gần 1,7 tỷ USD, tăng 48,2%.

Đặc biệt, có 7 sản phẩm/nhóm sản phẩm có giá trị XK trên 2 tỷ USD bao gồm cà phê, cao su, gạo, rau quả, điều, tôm, sản phẩm gỗ.

Về thị trường XK, 8 tháng năm 2022, các thị trường thuộc khu vực châu Á chiếm 43,1% thị phần, châu Mỹ chiếm 28,9% thị phần, châu Âu chiếm 11,8% thị phần, châu Đại Dương chiếm 1,7% thị phần và châu Phi chiếm 1,6% thị phần.

Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường XK lớn nhất, đạt gần 9,6 tỷ USD, chiếm 26,4% thị phần. Đứng thứ 2 là thị trường Trung Quốc XK khoảng 6,5 tỷ USD, chiếm 17,8% thị phần. Tiếp đó là Nhật Bản và Hàn Quốc.

Về NK, tính chung 8 tháng, kim ngạch NK các mặt hàng NLTS ước trên 29,9 tỷ USD, tăng 3,9% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, giá trị NK các mặt hàng nông sản chính ước đạt trên 18,3 tỷ USD, tăng 1,1%; nhóm hàng thủy sản ước trên 1,9 tỷ USD, tăng 37,5%; nhóm lâm sản chính trên 2,2 tỷ USD, tăng 3,6%; nhóm sản phẩm chăn nuôi gần 2,1 tỷ USD, giảm 10,8%; nhóm đầu vào sản xuất ước gần 5,4 tỷ USD, tăng 12%.

Sản xuất NLTS tiếp tục đạt được kết quả khả quan.

Trước những khó khăn về thị trường, Bộ NNPTNT đã phối hợp với các đại sứ quán, tham tán thương mại, tham tán Nông nghiệp tăng cường xúc tiến, quảng bá theo hình thức trực tuyến (online) đối với các sản phẩm đã được mở cửa, XK chính ngạch vào các thị trường gắn liền với các hoạt động ngoại giao của Chính phủ và của bộ NNPTNT vào các thị trường lớn (Trung Quốc, Hoa Kỳ, EU, Nga, Braxin) và khai thác hiệu quả các thị trường tiềm năng (Nhật Bản, Hàn Quốc, ASEAN, Úc, New Zealand, Trung Đông).

Từ nay tới cuối năm 2022, Bộ NNPTNT sẽ thực hiện mục tiêu hoàn thành đàm phán mở cửa thị trường đối với các sản phẩm gồm: nhãn XK đi Nhật Bản; tiếp tục đàm phán các sản phẩm chanh leo, dừa XK đi Hoa Kỳ, bưởi XK sang Hàn Quốc, chanh leo XK sang Úc, cây có múi XK đi New Zealand.

Triển khai Nghị định thư về sầu riêng và hướng dẫn tạm thời đối với chanh leo XK sang Trung Quốc; chuẩn hóa lại các quy định liên quan đến các loại quả tươi truyền thống XK sang Trung Quốc.

Đồng thời, tích cực triển khai chủ động có hiệu quả các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương. Chủ động chuẩn bị tốt các hồ sơ kỹ thuật, tích cực đàm phán để mở cửa thị trường cho nông sản XK chính ngạch vào thị trường lớn và tiềm năng; giải quyết các vấn đề rào cản kỹ thuật phát sinh tạo điều kiện thuận lợi cho XK.