I. Vì sao có chiến dịch ?
Sau cách mạng tháng 8 thành công, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã qua 5 năm, nhưng lực lượng cách mạng vẫn bị cô lập, Chính quyền cách mạng luôn tích cực mở rộng quan hệ, tìm sự ủng hộ của cộng đồng thế giới. Ngày 1 tháng 10 năm 1949, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời, đã nhanh chóng công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tiếp đó, ngày 18 tháng 01 năm 1950, Liên Xô và các nước Đông Âu công nhận và đặt quan hệ ngoại giao. Uy tín và tiềm lực quân đội cách mạng ngày một gia tăng, đã ảnh hưởng tích cực đến mọi tầng lớp nhân dân.
Chiến tranh ở Việt Nam kéo dài, đã đẩy nước Pháp lâm vào khủng hoảng chính trị chưa từng có. Chính quyền bù nhìn quá yếu để hỗ trợ việc cai trị của thực dân ở Đông Dương, buộc Chính phủ Pháp phải chấp nhận viện trợ kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ. Sau 5 năm, quân Pháp ở Đông Dương ngày càng bị sa lầy, lâm vào thế phòng ngự. Lực lượng quân bù nhìn bản xứ tuy có phát triển, nhưng hầu như không đảm trách được nhiệm vụ thay thế lính Pháp. Ngoài việc tăng viện 20 tiểu đoàn Âu - Phi, thực dân Pháp đã thực hiện chiến lược Da vàng hóa chiến tranh Đông Dương. Họ đã thành lâp thêm 35 tiểu đoàn quân bản xứ và nước Mỹ bắt đầu nhúng tay vào cuộc chiến với viện trợ quân sự cho cả Pháp lẫn Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
Tháng 5/1950, Tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp, tướng Georges Marie Joseph Revers được cử sang Đông Dương nghiên cứu tình hình và hoạch định kế hoạch mới với nội dung Tăng viện và dồn quân ra Bắc để củng cố và mở rộng phạm vi ảnh hưởng. Theo đó, đã tăng cường phòng thủ trên tuyến Lạng Sơn-Tiên Yên-Hải Phòng và Hà Nội, nhằm phong tỏa biên giới Việt Nam.
Theo kế hoạch Revers, quân đội Pháp đã coi Bắc Bộ là chiến trường chính với chủ trương chiếm rộng đồng bằng để củng cố biên giới, đồng thời ra sức tǎng viện, thêm quân đội bản xứ, giảm ảnh hưởng và thu hẹp khả năng kiểm soát của lực lượng cách mạng. Bằng cách tǎng cường lực lượng trên chiến trường đồng bằng, lập hệ thống phòng ngự dựa vào những cứ điểm lớn và các binh đoàn ứng chiến (colonne); tǎng cường phi cơ và trọng pháo để chống lại những cuộc tấn công của quân đội cách mạng.
Nhằm giành lại thế chủ động trên chiến trường, thực dân Pháp đã tăng cường hệ thống phòng ngự đường số 4, khoá biên giới Việt-Trung, thiết lập hành lang Đông-Tây để cô lập Việt Bắc với đồng bằng và chuẩn bị lực lượng để tấn công Việt Bắc lần thứ 2, nhằm tiêu diệt đầu não kháng chiến. Bộ chỉ huy quân sự Pháp đã thực thi kiểm soát toàn tuyến biên giới từ Cao Bằng đến Móng Cái (dọc theo Đường thuộc địa số 4)
II. Tương quan lưc lượng trong chiến dịch Biên giới Cao Bắc Lạng
2.1. Về thực dân Pháp:
Từ Lạng Sơn đến Cao Bằng trên chặng đường dài 116 cây số xuyên qua rừng rậm, núi cao, Quân đội Pháp đã xây dựng những đồn bốt lớn kiêm cố ở các thị trấn như Lạng Sơn, Đồng Đăng, Na Chàm, Thất Khê, Na Ra, Đông Khê và Cao Bằng với những đồn nhỏ ở rải rác xung quanh. Bộ chỉ huy Quân đội Pháp đặt tại Lạng Sơn do đại tá Constans đứng đầu. Ngoài quân đồn trú còn có lực lượng cơ động là lính thuộc Binh đoàn Ma Rốc (Groupement tirailleur Marocain GTM) do Trung tá Le Page chỉ huy.
Tại Cao Bằng, nơi có 3 tiểu đoàn lính Lê dương, Maroc và lính/phu người bản xứ do đại tá Charton phụ trách. Ở Lạng Sơn có 5 tiểu đoàn lính Pháp, với thiết giáp, trọng pháo và nhiều binh lính người bản xứ. Tại Đông Khê, cách Cao Bằng 30 cây số về phía Đông Nam, có 2 đại đội Lê dương canh giữ dưới quyền của 2 đại uý Vollaire và Allioux. Đồn binh Thất Khê cách Đông Khê chừng 20 do một đại đội quân Pháp trấn giữ.
Thị trấn Đông Khê thuộc huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng, nằm dọc theo đường số 4, trên ngã ba Cao Bằng, Tà Lùng và Thất Khê. Cách Đông Khê 45km về phía Bắc là TX Cao Bằng, 15km về phía Nam là Pò Khẩu, 5 đến 7km về phía Đông là Phìa Khoá, 12km về phía Tây là làng Hạc.
Cụm cứ điểm Đông Khê nằm trong hệ thống phòng thủ Cao Bắc Lạng, Lực lượng quân Pháp ở đây có 2 đại đội thuộc tiểu đoàn 2 trung đoàn 3 bộ binh lê dương và 1 trung đội bảo an do đại úy Allioux chỉ huy, quân số ở Đông Khê khoảng 350; Binh khí có nhiều vũ khí hiện đại như đại bác 105mm, súng cối 81mm, cối 60mm, pháo 57mm, pháo 20mm. Bố trí thành 2 khu vực là khu trung tâm và ngoại vi. Cứ điểm Đông Khê có hoả lực mạnh, công sự kiên cố, các cứ điểm được xây dựng liên hoàn, có thể chi viện hỗ trợ lẫn nhau.
Lực lượng quân Pháp trong chiến dịch có 10 tiểu đoàn Âu Phi, 1 tiểu đoàn và 9 đại đội lính Việt (chưa tính đến 2 tiêủ đoàn cơ động bổ sung sau này) khí tài trang bị có 27 khẩu pháo các loại (gồm 155mm, 105mm, 94mm, 75mm và 57mm); 4 đại đội công binh; 4 đại đội cơ giới; 6 máy bay chiến đấu và 2 máy bay trinh sát .Các tiểu đoàn Lê Dương đều là các đội quân tinh nhuệ, có khả năng đánh phòng ngự rất tốt.và lực lượng Tabor là lính Ma Rốc có khả năng đánh trận núi. rừng; lực lượng lính bản xứ phần lớn là người Thổ người Nùng, rất xông xáo và thông thạo chiến trường.
Trên toàn chiến trường Bắc Bộ, số quân Pháp có 9 tiểu đoàn cơ động trong tổng số 12 tiểu đoàn của cả Đông Dương. Trên thực tế, Pháp đã điều động thêm 2 tiểu đoàn cơ động lên Biên giới là 1 BEP (Tiểu đoàn dù lê dương số 1) và 3 BCCP. Hệ thống đồn bốt của Pháp rất vững chắc, đều có lô cốt bê tông cốt sắt kiên cố. Các vị trí này đều là những mục tiêu khó khăn đối với trang bị của quân đội ta lúc bấy giờ
2.2. Về phía Quân đội Nhân dân Việt Nam:
Tham gia chiến dịch có Đại đòan 308 gồm 3 trung đoàn 36, 88, 102; tiểu đoàn 11 và 2 trung đoàn chủ lực 174 và 209; 2 tiểu đoàn độc lập: 426, 428 của Liên khu Việt Bắc và tiểu đoàn 888 của tỉnh Lạng Sơn. Lực lượng Pháo binh: gồm 4 đại đội sơn pháo có 20 khẩu 70mm và 75mm;Công binh có1 đại đội. Tổng số tham gia chiến dịch khoảng 25.000 người.
Lãnh đạo chiến dịch là Đảng ủy và Bộ chỉ huy chiến dịch có trụ sở ở cách Đông Khê chừng10km:gồm có Đại tướngVõ Nguyên Giáp, chỉ huy trưởng kiêm chính ủy mặt trận, các ủy viên là Trần Đăng Ninh, Hoàng Văn Thái, Lê Liêm và.Bùi Quang Tạo. Thiếu tướng Hoàng Văn Thái Tổng tham mưu trưởngQĐND, làm tham mưu trưởng chiến dịch.
Cùng với huấn luyện quân sự, bộ đội tham gia chiến dịch đã qua các lớp giáo dục chính trị. Đặc biệt, đây là lần đầu QĐND phải đối mặt với những khó khăn về hậu cần trên qui mô lớn Do tầm quan trọng của chiến dịch, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trực tiếp tham gia. Khi chia tay với Đại tướngVõ Nguyên Giáp đi chiến dịch, Bác đã căn dặn“Chiến dịch này hết sức quan trọng, chỉ được thắng không được thua!”.
Ngày 21/8/1950 sau thảo luận tại Hội nghị Đảng ủy, Ban chỉ huy chiến dịch đã nêu rõ quyết tâm Tập trung ưu thế binh hỏa lực để đánh Đông Khê đồng thời tiêu diệt quân ứng chiến đường không và đường bộ chuyển xuống Thất Khê. Nếu chưa đủ điều kiện thì đánh vận động quanh Thất Khê hoặc đánh địch vận động trên đường Thất Khê-Đông Khê hoặcThất Khê -Lạng Sơn. Sau khi tiêu diệt được Đông Khê sẽ, nghỉ 10 đến 15 ngày rồi đánh lên Cao Bằng. Khi địch quân Pháp bỏ Cao Bằng rút chạy về phía Nam sẽ tập trung lực lượng tiêu diệt địch trên đường Cao Bằng-Đông Khê. Với thời gian dự kiến từ 30 đến 40 ngày, bộ chỉ huy chiến dịch đã lưu ý phải giải quyết nhanh Đông Khê, Thất Khê, tốt nhất là từ 7 đến 10 ngày. Ngày14/9/1950 các lực lượng tham gia chiến dịch đã sẵn sàng ở vị trí tập kết. Có thể nhận thấy toàn chiến dịch diễn ra theo 3 giai đoạn.
III. Diễn biến của chiến dịch
3.1. Đợt 1 từ 16 tháng 9 đến 20 tháng 9 tiêu diệt gọn cứ điểm Đông Khê:
Ngày 16 tháng 9, 2 trung đoàn 174 và 209 do Thiếu tướng Hoàng Văn Thái chỉ huy đã chủ động đánh chiếm cứ điểm Đông Khê nhằm cô lập Cao Bằng, uy hiếp Thất Khê và phá thế phòng thủ của quân Pháp trên đường số 4. Đây là trận đánh mở đầu chiến dịch, để đảm bảo chắc thắng, Ban chỉ huy mặt trận đã quyết định sử dụng lực lượng tinh nhuệ nhất để đánh Đông Khê.
Trung đoàn 174 được tăng cường thêm tiểu đoàn 426 và, tiểu đoàn 11 thuộc Đại đoàn 308 với 6 khẩu sơn pháo 75mm, 4 ĐKZ 57mm có nhiệm vụ tiến công theo hướng chủ yếu từ phía Đông Bắc và Bắc. Trung đoàn 209 được bổ sung thêm 4 sơn pháo 75mm và 2ĐKZ, có nhiệm vụ tiến công theo hướng thứ yếu là Tây Nam và Tây. Tiểu đoàn pháo 75mm gồm ba khẩu bố trí ở phía Đông cụm cứ điểm, chi viện trực tiếp cho trận đánh. Trung đoàn 36 thuộc Đại đoàn 308 được bố trí ở hướng Đông Nam, có nhiệm vụ tiêu diệt quân dù và chặn đánh quân Pháp ở Đông Khê chạy về phía Nam, đồng thời cũng là lực lượng dự bị đánh Đông Khê khi cần.
Sáng ngày 16/9 năm 1950, tại Đông Khê, vào 6 giờ 30, Một trận pháo kích lớn đã đổ xuống trận địa quân Pháp. Trung đoàn 174 mở cuộc tiến công lên các vị trí tiền tiêu, đến 9 giờ chiếm được đồn Yên Ngựa, 10 giờ 30 phút, chiếm đồn Phìa Khóa, cách pháo đài địch khoảng 200m. Ở hướng Tây Nam, trung đoàn 209 triển khai trận địa chậm hơn, đến 18 giờ mới nổ súng, 21 giờ diệt được đồn Pò Đình, tiếp tục tiến công đồn Pò Hầu, nhưng hết ngày vẫn chưa giải quyết xong. Trong khi đó, tại Cao Bằng, Trung tá Charton chưa biết được sự do dự của bộ chỉ huy cấp cao, nhưng từ sang sớm đã biết "Tiếng pháo kích nổ vang liên tục ở phía Nam và tin là là tình hình Đông Khê rất nghiêm trọng.!.."
Ngày 17/9, Đông Khê trở nên rất khó khăn cho Quân đội Pháp. Trong pháo đài, hệ thống phòng thủ bị cắt làm đôi, 4 giờ sáng, trung đoàn 174 chiếm được Cẩm Phầy, trung đoàn 209 chiếm được Phủ Thiện, Nhà Cũ, khu trường học. Vào cuối buổi sáng, quan sát còn thấy, cờ tam tài bay trên pháo đài. Trung sỹ nhất Rajault, phi công thuộc phi đội 3/6 đồn trú ở Gia Lâm, trên chiếc P63 Kingcobra rải đạn yểm trợ pháo đài đã bị bắn rơi ở Nam Đông Khê. Cuối ngày, trước sự chống trả quyết liệt của lính lê dương, cuộc tấn công tạm dừng. Vào 18 giờ 30, tướng Hoàng Văn Thái hạ lệnh tổng tấn công. Tiểu đoàn 251 tiến công theo hướng Đông pháo đài, chiếm được đầu cầu. Trên hướng Bắc, tiểu đoàn 249 chiếm đồn Nhà Thương, rồi phát triển vào bên trong, bắt liên lạc được với trung đoàn 209, cùng phối hợp tổ chức mũi tiến công vào sau lưng pháo đài. Trận chiến đấu ác liệt kéo dài suốt đêm, Đại đội trưởngTrần Cừ đã lấy thân mình lấp lỗ châu mai, tiểu đội trưởng La Văn Cầu đã nhờ đồng đội chặt cánh tay bị thương để tiếp tục lao lên đánh bộc phá.
Ở mặt trận Na Sầm-Lạng Sơn, ngày 16 tháng 9, tiểu đoàn 428 phục kích ở Pắc Luông đã đánh thắng tiểu đoàn 3 Ta-bo đi từ Lạng Sơn lên Na Sầm, phá 4 xe, diệt 60 lính. Ngày 17 tháng 9, tiểu đoàn 888 phục kích ở Tha Lai phá 2 xe, diệt 120 lính; và ngày18 tháng 9 đã phá được cầu Tha Lai.
Sau 54 giờ chiến đấu, ngày 18 tháng 9, cứ điểm Đông Khê hoàn toàn thất thủ. Quân Pháp bị diệt hơn 120, bị bắt 200, chỉ có 20 lính trốn thoát chạy vào rừng. Đại úy Jeaugeon cùng khoảng 20 lính lê dương chạy được về Thất Khê trong quần áo tả tơi, đói khát và kiệt sức. Đại úy Allioux, chỉ huy cứ điểm, bị bắt sống. Pháp có1máy bay khu trục bị bắn rơi; 2 cỗ pháo 105mm, 1 pháo 57mm, 1 cối 81mm, 1 trọng liên, 5 đại liên, 3 khẩu PIAT, 13 trung liên, 2 cac bin, 2 súng ngắn và 162 súng trường đã bị tịch thu. Phía QĐND có 130 người tử trận, 223 bị thương.
Lần đầu tiên QĐND Việt Nam vận dụng thành công chiến thuật công kiên với hiệu quả cao ở cấp trung đoàn. Thắng lợi Đông Khê đã tạo điều kiện quan trọng cho chiến dịch thắng lơi, đồng thời mở ra một giai đoạn chiến đấu mới; chuyển từ cách đánh du kích sang đánh chính quy để làm nên trấn động địa cầu trong chiến dịch Điện Biên vào tháng 5 năm 1954. Chiến thắng Đông Khê đã chặt đứt một mắt xích quan trọng trong hệ thống phòng thủ đường số 4 của Quân đội Pháp. Đây là trận chiến công kiên có quy mô lớn với sự hiệp đồng giữa các binh chủng, tập trung tiêu diệt cứ điểm được phòng ngự trong công sự kiên cố, hoả lực mạnh, quân số đông và ở địa hình núi rừng hiểm trở.
3.2. Đợt 2 từ 21 đến 29 tháng 9 tập trung tiêu diệt quân cơ động Pháp:
Ngày 16/9, từ Sài Gòn, mệnh lệnh đặc biệt số 46 của tướng Carpentier đã được truyền đi, mệnh lệnh ghi rõ "Tôi quyết định rút tất cả các đồn bốt ở Cao Bằng và Đông Khê vào 1 ngày gần nhất” Mật lệnh nêu rõ "Các đơn vị ở Cao Bằng sẽ được củng cố bằng 2 tiểu đoàn Ta-bo đến bằng đường không. Cũng bằng đường không, thường dân trẻ em, người già và phụ nữ sẽ được đưa về Lạng Sơn. Những người đàn ông sẽ rút bằng đường bộ cùng với quân đội. Đường rút lui sẽ là đường số 4, cùng với các đơn vị đồn trú ở Đông Khê...
Bộ chỉ huy Quân Pháp đã nhanh chóng điều động quân đội thực hiện những cuộc "hành quân kép". gửi tiếp viện đi từ Lạng Sơn qua Thất Khê, nhằm tái chiếm Đông Khê. Cuộc hành quân Tizgnit gồm ba tiểu đoàn lính Tabor và lính Ma rốc do trung tá Maurice Le Page chỉ huy, hành quân từThất Khê lên nhằm chiếm lại cứ điểm Đông Khê mở lại đường số 4và thu hút chủ lực của QĐND Việt Nam.
Cuộc hành quân Bão táp (Orage) do trung tá Pierre Charton chỉ huy rút lui từ Cao Bằng xuống gặp Le Page ở Đông Khê. Một tiểu đoàn dù do đại úy Jean Pierre và trung uý Faulque đã được thả xuốngThất Khê để tiếp viện và chặn giữ QĐND Việt Nam tràn xuống Lạng Sơn.
Tại Lạng Sơn, Bộ chỉ huy của đại tá Constans, chỉ huy trung đoàn 3 lê dương và quân đồn trú ở vùng biên giới Đông Bắc, người nhận mật mệnh lệnh 46, trước tình hình mới bất ngờ đã có phản ứng. Lúc này trong tay Constans có 1 liên đoàn bộ binh bắc phi do trung tá Le Page chỉ huy: bao gồm Tiểu đoàn 11 Ta-bo của thiếu tá Delcros, gồm 860 lính, 14 sỹ quan và 50 hạ sỹ quan. Tiểu đoàn pháo giã chiến của trung đoàn 8 bộ binh nhẹ Maroc của thiếu tá Arnaud gồm 706 lính, 17 sỹ quan, 119 hạ sỹ quan; Tiểu đoàn 3 Ta-bo của thiếu tá de Chergé gồm 850 lính, 16 sỹ quan, 50 hạ sỹ quan
Tiểu đoàn 1 Ta-bo của đại úy Feaugas ở Đồng Đăng, đã nhanh chóng hành quân về phía Nà Chàm. Ngày 17-9 binh đoàn Le Page rut chạy đã bị chặn lại ở vùng núi vôiThà Lại, cách Đồng Đăng chừng 5km; tiểu đoàn 3 Ta-bo đi đầu, bị rơi vào 1 ổ phục kích với 5 lính chết và 16 bị thương. Trong thời gian 12 ngày khi binh đoàn Le Page hành quânđi qua Thất Khê, tướng Giáp liên tục củng cố các vị trí phục kích gần thị trấn. Phần lớn lực lượng chủ lực bao gồm cả đại đoàn 308, trung đoàn 209 và trung đoàn pháo binh 95 đã tập trung trong vùng núi giữa biên giới và đường số 4 kéo dài từ dãy Nà Kéo đến Nà Mộc Ngần trên một hành lang khoảng 12–13 km.
Trung đoàn 174,sau trận chiến Đông Khê,đã cùng tiểu đoàn 426 và 4 sơn pháo 75mm, được lệnh hành quân cấp tốc xuống Nam Thất Khê, vượt qua thị trấn để cắt đường số 4 giữa Thất Khê với Na Sầm,và sẵn sàng tiêu diệt các đồn bốt còn đóng rải rác trên con đường này cho đến Lạng Sơn.
Cuối tháng 9, ở Cao Bằng, từng đoàn máy bay chở đến toàn bộ tiểu đoàn 3 Ta-Bo. Thực tế là sau ngày 20/9, Alessandri đã phác thảo kế hoạch triệt thoái khỏi Cao Bằng Ngày 29/9, Sác-tông đã được lệnh chính thức phải bỏ Cao Bằng, cuộc hành quân được đặt tên là chiến dịch Therese. Cuộc rút lui này trùng với các hoạt động của binh đoàn Le Page. Ngày rút lui được chỉ định vào ngày 3/10; nếu tự ý rời Cao Bằng sớm hơn, binh đoàn của sẽ phải một mình chịu trận với hơn 10 tiểu đoàn QĐND Việt Nam.
Đại đoàn 308 chiếm được những điểm cao quan trọng ở ngọn núi Ngọc Trà và Khâu Luông, từ đó khống chế được Đông Khê và đường số 4. Sáng ngày 1/10, binh đoàn Le Page bắt đầu hành quân trên đường số 4 về phía Lũng Phai. Không một cuộc đụng độ nào xảy ra. Giai đoạn đầu của chiến dịch “Tiznit” kết thúc, Le Page đã thi hành theo đúng mệnh lệnh nhận được, chiếm giữ những vị trí quan trọng dọc đường số 4. Vài ngày sau tù binh Pháp bị băt mới biết được là, họ đã bị theo dõi chặt chẽ và để chắc ăn Việt Minh đã để quân Pháp tiến sâu vào trận địa. Quân Pháp càng tiến lên phía trước càng cách xa nguồn tiếp viện và yểm trợ. Nơi cần đến đã trở thành 1 cái bẫy khổng lồ.
Chiều 1 tháng 10, Bộ chỉ huy QĐNDVN quyết định “tập trung lực lượng tiêu diệt toàn bộ quân địch từ Đông Khê đến Keo Ái. Theo đó, Trung đoàn 209 phải chiếm lĩnh được các điểm cao trong thị trấn, mgăn chặn không cho địch chiếm lại Đông Khê; trung đoàn 88 chiếm lĩnh Keo Ái chặn không cho Pháp rút về cũng như quân Pháp từ Thất Khê lên; Trung đoàn 36 chiếm lại Khâu Luông, sẵn sàng đánh quân dù trong phạm vi từ Nà Pá đến Pò Hầu; trung đoàn 102 làm lực lượng dự bị.
Chiều ngày 1/10, Tiểu đoàn dù lê dương bị dừng lại trước các vị trí đặt súng máy trên gò đất phía Nam Đông Khê. Sáng sớm ngày 2/10/1950, Le Page chuyển quân. Tiểu đoàn dù đi tiền phong, đến đồn Na-pa bỏ trống, cách Đông Khê khoảng 6 cây số thì giao chiến. 10 tiểu đoàn QĐNDVN đợi quân dù xuống lòng chảo mới từ trên các ngọn đồi và đồn Na-pa nổ súng xuống. Trọng pháo, súng liên thanh, moọc-chi-ê nổ liên hồi vào đầu quân nhảy dù. Ngay những phút đầu, tiểu đoàn dù đã thiệt hại 1/3 quân số. Lepage vội vàng ngưng tiến, ra lệnh cho quân dù còn lại cố cầm chân QĐNDVN để Lepage tìm đường khác xuyên qua rừng. Suốt ngày 2 tháng 10, các trận địa mai phục của đại đoàn 308 liên tục đánh làm tiêu hao cánh quân của Le Page. Đến17 giờ, đại đội 1 trung đoàn 8 bộ binh Ma rốc gồm 120 lính bị đánh bật ra khỏi đỉnh Trọc Ngà; kết quả là 50 lính bị chết, 30 bị thương và 5 bị bắt Feuillet, đại đội trưởng bị thương nặng.
18 giờ cùng ngày, tiểu đoàn Ta-bo 1 bắt đầu bị nã súng cối và các trận đánh bộ binh đã xảy ra quyết liệt vào 22 giờ. Tại Na Kéo, tiểu đoàn Ta-bo 11 do thiếu tá Delcros chỉ huy bị pháo kích ác liệt.Đêm 2-3 tháng 10 vào 4 giờ sáng, tiểu đoàn 1 Ta-bo lại tiếp tục tấn công lên dãy núi vôi phía tây nam Đông Khê. Trong 2 ngày đã tổn thất mất 7 chết và 17 bị thương. Vào 6 giờ 30, 2 đại đội của Ta-bo 1 chịu nhiều đợt tấn công và cận chiến dữ dội do 2 tiểu đoàn 80 và 84 trung đoàn 36 của Việt Nam. Sơn pháo Pháp ở phía bên kia dốc núi không chi viện được. Đến sáng, không quân đến tiếp. viện nhưng lại bắn nhầm vào vị trí lính Bắc Phi. Kết quả là tiểu đoàn Tabo11 có 17 người chết và 35 bị thương.
Vào 16 giờ, trận Na Kéo bắt đầu trở lại. Le Page chiến được điểm cao 765 cách đó khoảng 4 km, theo dõi tình hình với rất nhiều lo lắng. Cuối chiều, Delcros báo tin Việt Minh đã chiếm được các đỉnh cao xung quanh Na Kéo. Ông ta muốn đưa thương binh về Lũng Phai để các đơn vị đồn trú đưa họ về Thất Khê. Đêm 3-4 tháng 10, đơn vị của Delcros bị đánh bật khỏi Na Kéo, bỏ lại những tử sỹ. Đây là lần đầu tiên từ thế chiến thứ 2 lính lê dương phải bỏ lại xác đồng đội, chứng tỏ tình huống rất gay go. Trong đêm tối, lính Bắc Phi đi trước, rồi đến tiểu đoàn dù lê dương và thương binh. Phía đầu của đội hình bị rơi vào 1 ổ phục kích, tất cả dân‘ cu li‘bản xứ đều bỏ chạy để lại toàn bộ cáng thương binh cho binh lính của Delcros. Các đơn vị lính Bắc phi bị đánh tan tác. Chỉ huy Delcros và đại úy Jean-Pierre chỉ huy phó tiểu đoàn dù lê dương bị lạc khỏi đội hình. Cùng thời gian đó, đại đội Bắc Phi ở Lũng Phai cũng bị đánh bật ra khỏi vị trí, phải lui về cao điểm 703. Cái rọ Đông Khê đã được đóng lại. Ngày 4 tháng 10, tiểu đoàn dù lê dương số 1 và Tabor của Pháp đã bị thiệt hại nghiêm trọng buộc phải rút khỏi Khâu Luông chạy về cố thủ với nửa binh đoàn còn lại ở thung lũng Cốc Xá, cách Đông Khê khoang 6 km về phía Tây Nam để đợi cánh quân của Charton từ Cao Bằng. rút chạy về
Trong khi Binh đoàn Le Page đang bị bao vây, ở Cao Bằng ngày 2/10, Sác-tông đã chuẩn bị phương án cuối cùng cho cuộc rút lui. Trưa hôm đó, Charton hạ lệnh phá huỷ hết kho trại, khí giới nặng và những cứ điểm chiến lược quan trọng tại Cao bằng; chỉ mang theo hai ngày lương thực, băng rừng xuống phía Tây Nam để gặp đoàn quân của Le page. Charton truyền lệnh ai đi chậm không theo kịp thì bị bỏ lại. Sáng ngày 3/10, Sác-tông thu xếp xong và rời thị xã. Binh đoàn Charton tiến rất chậm và vẫn chờ liên lạc của Constans và nhất là của binh đoàn Le Page. Đoàn xe kéo dài hàng km bao gồm hàng nghìn lính, và sỹ quan của trung doàn 3 lê dương, có cả công binh và lính hậu cần: Cùng đi còn có 2 xe bọc thép, 3 xe Dodge 3cầu, 1 Dodge 4 cầu, 3 xe GMC ben, 6 GMC tải, 8 Jeep, 2 pháo 105mm, 1 pháo Bô-pho 40mm trên GMC và 1 cối 81mm.
Đêm 1-2 tháng 10, trên đường số 4 giữaThất Khê và Lạng Sơn,Trung đoàn 174 đã đến nơi hội tụ trong tư thế sẵn sàng tấn công các đồn bốt phía Nam Thất Khê và cắt liên lạc giữa 2 thị trấn. Ngày 3/10, Trung đoàn 174 cùng 2 tiểu đoàn 426 và 428 bắt đầu việc cắt đường. Bốt 41 Tây nằm một mình trên sông Kỳ Cùng bị tấn công và tiêu diệt lúc 21 giờ. khoảng 30 lính Pháp sống sót vượt sông về bốt 41 Đông. Ngày 4/10, trung đoàn tiếp tục tiêu diệt bốt 41 Đông. 0 giờ 25 ngày 5/10, sau gần 4 giờ cận chiến, đơn vị lê dương ở đây phải rút lui với 7 người chết, 13 bị thương và hơn 30 mất tích. Đại đội 3 lê dương, đóng ở đồn 45, mất liên lạc với cấp trên, đã tự động bỏ chốt rút về Thất Khê. Từ giờ phút này, không còn sự hiện diện nào của quân Pháp trong vòng 20 km về phía Nam Thất Khê. Cũng lúc này, trung tá Đặng Văn Việt được lệnh cùng với trung đoàn 174 lên phía Bắc tham gia vào chiến dịch tiêu diệt 2 binh đoàn Pháp đang rút chạy.
Trung đoàn 209(trung đoàn Sông Lô) đã hành quân lên Quang Liệt, phía Bắc Đông Khê để chặn đánh binh đoàn Charton. Ngày 6 tháng 10, cánh quân của Charton đến Cốc Xá bắt liên lạc được với Le Page. Quân của.Đại đoàn 308 vây chặt Cốc Xá và điểm cao 477. Trung đoàn 209 chặn ở phía Bắc. Phía Nam; trung đoàn 174 chốt chặn đường rút ở Cốc Tồn-Khâu Pia. Ngày 5/10, những lính Pháp sống sót của các đồn 41 đông và tây còn 77 lính lê dương và 2 sỹ quan, đã rút chạy về Thất Khê.
Sáng sớm ngày 6 tháng 10, trung đoàn 36 bắt đầu tấn công Cốc Xá. Tình hình phòng thủ của các đơn vị Bắc Phi bắt đầu xấu đi rất nhanh vào buổi sáng, những khẩu súng máy và súng cối của QĐND Việt Nam đã bao phủ hoàn toàn vị trí phòng thủ của các đơn vị này. Cả ngày hôm đó, những bức điện liên tục được gửi cho Le Page từ Constans cho thấy tình hình đầy kịch tính của chiến trận. Vào 10 giờ 15 ngày 6/10/1950, lần đầu tiên bom napan được sử dụng trên chiến trường Việt Nam bên cạnh những quả bom thường. Đến trưa, gần như toàn bộ binh đoàn Le Page bị xoá sổ, chỉ còn 650 trên tổng số 2500 người, số ít còn lại cố chạy sang điểm cao 477 cùng với chỉ huy Le Page. Tại cao điểmr 477, quân của đại đoàn 308 và trung đoàn 209 đã vây chặt quân Charton ,Chiều cùng ngày, tiểu đoàn 89 đã chiếm lĩnh con đường độc đạo đi về Cốc Xá, thành lập 1 hệ thống phòng thủ chiều sâu với đơn vị tiền tuyến là đại đội 395 với sự yểm trợ của 2 đại đội 397 và 399 cùng tiểu đoàn bộ ngayở phía sau. Chưa kể đến những khẩu súng máy đặt trên 2 điểm cao kề bên Cốc Xá có thể bắn chéo cánh sẻ vào toàn bộ con đường hành lang.
Vào 17 giờ, Le Page họp tất cả các tiểu đoàn trưởng của binh đoàn cho biết, cuộc tấn công phá vây vào hẻm Cốc Xá sẽ bắt đầu vào 3 giờ sáng hôm sau. Tiểu đoàn dù lê dương là đơn vị tiên phong. Le Page điện đàm trực tiếp với Charton, cho biết đang bị bao vây và sắp phải phá vòng vây và hẹn găp Charton ở cao điểm 477 vào cuối đêm. Tất cả quân còn lại của Lepage còn khoảng hơn 350 lính dù lê dương . Trong 1 cuộc xung phong được nhiều nhân chứng xem là "ghê rợn nhất trong lịch sử chiến tranh Đông Dương", với tiếng nổ liên hồi của lựu đạn, súng cối, và súng tự động của QĐND Việt Nam "đã gặt những người lính dù lê dương như gặt lúa". Chưa đầy 1 giờ, cả tiểu đoàn đã bị tiêu diệt, tất cả các chỉ huy đại đội đều tử trận, đa số các trung đội trưởng đều chết hoặc bị thương.
Vào khoảng 6 giờ 30 sáng, những người lính Bắc Phi sống sót đã đến được vị trí “nguồn nước”, nhưng ở đây họ vẫn cần vượt 1 vách đá để xuống vùng thung lũng, nơi binh đoàn Charton đang đợi, trong khi những khẩu súng máy ở các điểm cao xung quanh vẫn không ngớt rải đạn vào họ.
Ngày 6/10, tình hình của binh đoàn Charton xấu đi rõ rệt. Đêm 6-7 tháng 10, QĐND Việt Nam tiếp tục tạo sức ép lên cao điểm 590 của tiểu đoàn 3 lê dương. Ở phía Tây, Charton đã thấy nhiều đơn vị vũ trang đang di chuyển trong ánh đuốc, trong khi hàng ngàn bộ đội Việt Nam đang âm thầm tiến về hướng Charton. Nhưng điểm đáng lo khác là binh đoàn Le Page, với hàng trăm thương binh mà đáng lẽ phải là đơn vị đi giải cứu cho binh đoàn này. Vào 5 giờ sáng, tiếng âm vang giữ dội của trận đánh phía Cốc Xá đã làm Charton càng lo lắng hơn.
Vào sáng sớm bộ đội Việt Minh bắt đầu tấn công. Đại đội hỗ trợ bản xứ bị đánh bật khỏi Bản Ca lùi về phía tiểu đoàn Ta-bo ở phía Bắc, khoảng 7 giờ sáng, tiểu đoàn 3 Ta-bo bị tấn công. Đại đội của đại úy Peyris đóng ngọn đồi số 3 phải rút chạyvề phía đại đội 51. Khi đến nơi, tiểu đoàn 3 lê dương tổ chức tấn công lấy lại ngọn đồi nhưng đã thất bại, thiếu tá Forget, chỉ huy tiểu đoàn đã bị tử thương. Charton cho 2 đại đội hỗ trợ bản xứ đến đóng quân ở đồi Qui Chân, để đón tiếp binh đoàn Le Page.
Trong buổi sáng, họ nhìn thấy từng nhóm hỗn hợp bộ binh Bắc Phi cùng với 1 số lính dù lê dương còn khoảng 130 người vừa thoát ra khỏi vòng vây đi về phía họ. Khi đến nơi, những người lính dù lê dương đã được tập hợp lại thanh đơn vị chiến đấu, Ngược lại, những đơn vị Bắc Phi đã mất hết khả năng chiến đấu và không thể tập hợp lại được
Sở chỉ huy của Charton nằm giữa đồi 477 và cao điểm 600m phía Nam. Đến chiều, binh đoàn Charton trở nên rối loạn khi biết tin binh đoàn Le Page đã bị xoá sổ. lúc 16 giờ, Charton đã tập hợp những người còn sống rút khỏi điểm cao 477 mở đường máu rut ề Nà Cao, nhưng đến chiều tát cả đều bị bắt làm tù binh cùng với toàn bộ ban tham mưu. Trong số 635 lính lê dương của tiểu đoàn rời Lạng Sơn 4 ngày trước, chỉ có 32 đến được Thất Khê, trong đó chỉ có 1 sỹ quan trên 15 người lúc đầu.
Những quân lính còn lại của Le Page cùng với chỉ huy của mình mất liên lạc với Charton đã tìm cách rút theo đường rừng để vềThất Khê nhưng sáng ngày 8 tháng 10, Le Page cùng các sĩ quan tham mưu đã bị các binh sĩ của đại đoàn 308 bắt làm tù binh.
Đêm 17 rạng ngày 18-10, Đại tá Constans ở Lạng Sơn ra lệnh quân sĩ lên đường, vội vã chạy không kịp phá huỷ, bỏ lại nguyên vẹn thành phố, doanh trại, kho quân nhu, đạn dược, thực phẩm, chỉ mang theo trọng pháo và một số xe chuyên chở. Số vũ khí bỏ lại đủ để trang bị cho một đại đoàn sau đó đã rơi vào tay QĐNDVN.
3.3. Đợt 3 truy kích quân Pháp rút chạy (từ 9 đến ngày 14/10 năm 1950):
Trước nguy cơ Thất Khê sẽ lại bị tiêu diệt như Đông Khê, bộ chỉ huy quân viễn chinh Pháp đã ra lệnh rút khỏi Thất Khê trong rối loạn. Ngày 11-10, Thất Khê rút lui bỏ lại nguyên vẹn đồn bót, súng ống đạn dược. Ngày 15-10, Na Chàm thất thủ sau một tuần chiến đấu. Đồng Đăng cũng rút lui bỏ chạy. Quân Pháp phải chịu những tổn thất nặng nề khi bị quân của đại đoàn 308 cùng trung đoàn 174 truy kích. Riêng tiểu đoàn 3 com-măng-đô đi chặn hậu để bảo vệ cuộc rút lui bị tiêu diệt và bị bắt hết, chỉ còn 5 người thoát được chạy về Lạng Sơn. Đến ngày 17 tháng 10, Bộ chỉ huy QĐND Việt Nam chủ động kết thúc chiến dịch.
Tính đến ngày 8 tháng 10, QĐNDViệt Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu 8 tiểu đoàn quân Pháp và làm sụp đổ kế hoạch phòng thủ biên giới. của bộ chỉ huy Quân đội Pháp.Trên 5.807 binh lính và sỹ quan của 2 binh đoàn, chỉ có 1.388 người đến được Thất Khê và Lạng Sơn trước khi những nơi này được phép di tản. Binh đoàn Le Page có 1.021 thoát được trong số 3.193, binh đoàn Charton có 367 trên 2.614. và tiểu đoàn dù BEP số 1, với hơn 1.000 người chỉ còn sống sót được 23 người.
Charton và Le Page đều bị bắt. Những sĩ quan khác bị bắt hoặc tử trận, chỉ thoát được có một mình đại úy dù Jean Pierre chạy về Thất Khê. Ngoại lệ có1 hạ sỹ quan cùng 7 lính Bắc Phi đã đi bộ trong suốt 3 tuần, sử dụng thực phẩm của dân để tới dược cảng Hải Phòng.
Thay cho lời kết
Trước sự uy hiếp của QĐND VệtNam và sự hoang mang của bộ chỉ huy Quân đội Pháp, đến ngày 22 tháng 10 năm 1950, quân Pháp phải rút bỏ hoàn toàn khỏi các cứ điểm còn lại trên đường 4 như Thất Khê, Na Sầm, Đồng Lập, Lạng Sơn với những thiệt hại rất nặng về trang bị, kí tài. Số vũ khí. Quân đội Pháp đã bỏ lại nguyên vẹn ở Lạng Sơn đủ để QĐND Việt Nam trang bị cho một đại đoàn.
Chiến dịch Biên giới đã làm phá sản chiến lược quân sự chính trị của Pháp. Vòng vây biên giới bị đập tan, hành lang Đông Tây bị chọc thủng, kế hoạch Rever bị sụp đổ hoàn toàn với tổn thất trên 8.000 lính trong 1 chiến dịch. Đây là một thất bại chưa từng có trong lịch sử chiến tranh xâm lược thuộc địa của đế quốc Pháp. Mất quyền chủ động quân sự ở Việt Nam, Pháp cũng mất luôn cả quyền chủ động về ngoại giao và chính trị.
Tin thất trận làm chính phủ và quốc hội Pháp rất lo ngại. Ngày 15/10 /1950, thủ tướng Pleven phải cử một phái đoàn gồm Bộ trưởng Liên kết Letourneau, tướng Juin và tướng Valluy sang Đông Dương để điều tra. Quốc hội phải họp phiên đặc biệt vào ngày 19/10/1950.trong không khí chủ bại và hoảng sợ bao trùm.Tướng Marchand chỉ huy Hà Nội và đại tá Constans chỉ huy Lạng Sơn đều bị cách chức, tướng chỉ huy Bắc kỳ Alessandri xin chuyển về nước Chính phủ Pháp phảivội tìm người có đủ uy tín và khả năng để giao phó Đông Dương; nhiều tướng lĩnh được mời nhưng đều từ chối, chi có De Lattre de Tassigny nhận lời.
De Lattre vội vã đên Hà Nội và ở luôn tại đó để trấn tĩnh nhân tâm và cải tổ lại quân đội, đã chặn việc triệt thoái quân đội khỏi Tiên Yên, Móng Cái và thi hành chương trình của tướng Carpentier để lại.
Phía Việt Nam đã đạt được toàn bộ mục tiêu đề ra, thành công hoàn toàn trong chiến dịch. Trong chiến dịch này, đã loại khỏi vòng chiến đấu 8.300 lính đối phương, gồm 7.000 lính Âu-Phi và hơn 1.000 lính pạc-ti-dăng; thu về trên 3.000 tấn vũ khí và phương tiện chiến tranh; gồm 2.000 súng đại liên, trung liên, 8.500 súng cá nhân, 450 xe vận tải, 13 trọng pháo, 120 súng cối, 3.500 quả đạn, 12.500 viên đạn đại bác 105mm, 7.000 viên đạn súng không giật, 5 triệu viên đạn súng bộ binh, ba tiểu đội thiết giáp, và 600 tấn xăng đầu. Quân trang thu hơn 4000 bộ, đủ trang bị cho hơn 2 trung đoàn. Quân lương như Gạo, Bột mì, muối, đường, sữa 1279 tấn, và hơn 8 tấn thuốc men.
Ý nghĩa lớn về mặt quân sự của chiến dịch không phải là số đất được chiếm hay số quân bị bắt mà là vành đai đồn bốt Pháp để bao vây Việt Bắc đã bị phá hủy hoàn toàn. Biên giới Việt-Trung (từ Cao Bằng đến Đình Lập) đã được khai thông, mở rộng địa bàn kiểm soát lên đến 4.000km2 với35 vạn dân. (dọc theo trục đường số 4). Chiến dịch đã khai thông biên giới, nối Việt Bắc với các đồng minh lớn, tạo hành một dải liên tục đến tận châu Âu. Thế bị bao vây cả trong lẫn ngoài được phá vỡ đã mở đường xây dựng một đội quân chính quy, hùng hậu, trang bị hiện đại để kết thúc chiến tranh.
Sau chiến dịch này, Việt Nam hoàn toàn thoát khỏi thế bao vây, QĐND đã thành lập những nhóm cơ động gồm các đại đoàn mạnh, mở nhiều cuộc tiến công lớn ở xa căn cứ Việt Bắc. Có thể nói đây là chiến dịch đầu tiên Quân Đội Nhân Dân Việt Nam chủ động tấn công, làm thay đổi cục diện chiến trường, bắt đầu giành quyền chủ động chiến lược trên các chiến trường. Quân Pháp thất bại lớn cả về quân sự và chính trị, bị đẩy lùi vào thế phòng ngự bị động.
Theo các nhà Quân sự, Chiến dịch này có ý nghĩa bản lề quan trọng và là bước ngoặt của cuộc chiến tranh.