Đào Duy Anh - Một nhà văn hóa lớn, một nhà sử học lớn

Ông Đào Duy Anh sinh ngày 25 tháng 5 năm 1904, quê ông ở làng Khúc Thủy, bên bờ sông Nhuệ, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông cũ.

Năm 1919 ông được cụ thân sinh cho học thêm chữ quốc ngữ và chữ Pháp, ngoài cái vốn chữ Hán mà ông đã có chút ít khi ông còn nhỏ. Năm 1925, ông đậu bằng Cao đẳng tiểu học ở Huế. Ông ra dạy học.

Năm 1925 như mọi người đều biết, khắp các miền trên đất nước Việt Nam bùng lên một phong trào yêu nước đòi thả cụ Phan Bội Châu bị giam ở nhà tù Hỏa Lò, Hà Nội và bị đưa ra Hội đồng Đề hình xử án và phong trào truy điệu cụ Phan Chu Trinh mất ở Sài Gòn năm 1925.

Phong trào yêu nước này làm cho ông  Đào Duy Anh tìm thấy một hướng đi cho suốt cuộc đời của mình: Tham gia cách mạng để giải phóng dân tộc khỏi xích xiềng nô lệ. Ông đã từ chức giáo học rồi gặp cụ Phan Bội Châu lúc này bị chính quyền thực dân Pháp giam lỏng ở Bến Ngự (Huế). Sau đó không lâu, ông Đào được giới thiệu vào Tân Việt cách mệnh đảng.

Là đảng viên Tân Việt cách mệnh đảng, ông Đào Duy Anh được giao nhiệm vụ tìm kiếm tài liệu về chủ nghĩa cộng sản mà Tân Việt cách mệnh đảng chỉ biết rất sơ sài.

Ông Đào Duy Anh được các đồng chí trong Tân Việt cách mệnh đảng cử vào Sài Gòn.

Tại thành phố này, ông Đào có cơ hội đọc nhiều sách chữ Pháp, chữ Hán nghiên cứu về văn hóa Đông - Tây và chủ nghĩa Mác. Đáng để ý nhất là ông tìm và đọc những sách về chủ nghĩa cộng sản, về chủ nghĩa Mác - Lênin và những sách báo viết về nước Nga Xô Viết do Đảng Cộng sản Pháp xuất bản và do các thủy thủ tiến bộ Pháp bí mật mang vào Đông Dương.

Trở về Huế cùng với các bạn, ông Đào Duy Anh đã lập ra Quan Hải tùng thư để xuất bản những sách về chủ nghĩa Mác và đứng trên quan điểm chủ nghĩa Mác mà viết về các vấn đề xã hội, kinh tế học, tâm lí học, v.v…

Ông và đồng chí Phan Đăng Lưu biên soạn cuốn Xã hội luận giới thiệu học thuyết tiến hóa của Đácuyn (Darwin), vạch cho mọi người thấy rằng xã hội loài người tiến hóa không ngừng từ thấp lên cao với ngụ ý chỉ ra rằng chính bản thân xã hội tư bản chủ nghĩa cũng phải biến đi để nhường chỗ cho một xã hội mới tiến bộ hơn. Cùng với Phan Đăng Lưu, ông Đào còn viết cuốn Lịch sử các học thuyết kinh tế và cuốn Tôn giáo là gì? Xã hội là gì? Dân tộc là gì?

Ba cuốn sách nói trên ngay sau khi phát hành được đưa vào nhà tù Hỏa Lò, Hà Nội vào những năm 1931, 1932, 1933, 1934, 1935 thường thường có đến 500 hoặc 600 tù chính trị. Xã hội luận, Lịch sử các học thuyết kinh tế và Tôn giáo là gì? Xã hội là gì? Dân tộc là gì? được các tù chính trị đọc đi đọc lại, có người đọc đến mấy chục lần đọc nhiều đến mức có người thuộc lòng hầu như toàn bộ những cuốn sách đó.

Trong cuộc bút chiến với Việt Nam Quốc dân đảng ở nhà tù, bên Việt Nam Quốc dân đảng đã chế giễu rằng: “Các quan viên cộng sản đã dựa vào những sách của Đào Duy Anh để chống lại chúng tôi”.

Ông Đào và đồng chí Phan Đăng Lưu trong những cuốn sách nói trên chỉ mới giới thiệu rất đơn sơ những nét quan trọng của chủ nghĩa Mác, nhưng chính lời văn đơn sơ, dễ hiểu này lại được những cán bộ xuất thân từ công nông của Đảng ưa thích, họ say mê đọc các sách đó của ông và do vậy họ đã trang bị thêm cho cái “ba lô” tư tưởng của họ những tri thức về chủ nghĩa Mác.

Các sách Xã hội luận, Lịch sử các học thuyết kinh tế và Tôn giáo là gì? Xã hội là gì? Dân tộc là gì? được các tù chính trị chuyền tay nhau đọc đến rách nát rất nhanh, mất hẳn bìa và mấy trang đầu sách. Sau tù chính trị gộp cả ba cuốn lại đóng thành một quyển. Trong nhà tù Hỏa Lò vào những năm 1932, 1933, 1934, 1935, cứ mỗi tuần lễ bọn gác ngục kéo vào khám lục soát một lần. Mỗi lần khám, chúng lấy đi những sách mà chúng muốn lấy, nhưng đến những cuốn sách nói trên của ông Đào chúng lại không lấy đi, vì chúng thấy sách đó rách nát quá, trông bẩn thỉu quá. Chính nhờ cái bề ngoài bẩn thỉu này mà tù chính trị ở nhà tù Hỏa Lò vẫn có sách của ông Đào Duy Anh để đọc.

Nếu như các sách Xã hội luận, Lịch sử các học thuyết kinh tế, Tôn giáo là gì? Xã hội là gì? Dân tộc là gì? đã mang vào nhân dân Việt Nam những tư tưởng mới, thì những sách đó cũng đem vào xã hội Việt Nam nhiều từ ngữ mới mà nhiều người không hiểu được. Đó là lí do chủ yếu khiến cho ông Đào Duy Anh đến năm 1932 xuất bản bộ Từ điển Hán Việt.

Từ điển Hán Việt ra đời làm cho những tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản có điều kiện đi sâu vào các tầng lớp xã hội Việt Nam.

Sau khi Hán Việt từ điển ra đời, năm 1936 ông Đào Duy Anh lại bắt đầu xuất bản một bộ sách lớn thứ hai. Đó là bộ Pháp Việt từ điển.

Cũng như bộ Hán Việt từ điển, bộ Pháp Việt từ điển được biên soạn bằng công sức cá nhân của ông Đào.

Năm 1938, ông Đào Duy Anh cho xuất bản Việt Nam văn hóa sử cương để “nêu cao niềm tự hào dân tộc về những giá trị dồi dào trong nền văn hóa cổ điển của đất nước”.

Về cuốn sách này, David Marr trong Vietnamese tradition đã nhận xét như sau: “Ông không những là người đầu tiên có cái nhìn duy vật biện chứng về lịch sử, mà còn là người đi tiên phong trong việc viết sử với một văn phong mới, lời ý sinh động, lại sử dụng nguồn tư liệu một cách quảng bác, ứng dụng những phạm trù sử học và có cách suy diễn hoàn toàn khác với cách viết trong sách trước đó”.

Vào những thập kỉ 40, ông Đào xuất bản cuốn Khổng giáo phê bình tiểu luận, ông đã đứng trên lập trường chủ nghĩa Mác mà phê phán đạo Khổng, vạch cho mọi người thấy rõ học thuyết của Khổng tử là học thuyết của giai cấp chủ nô được đưa ra để bảo vệ quyền lợi của chủ nô.

Năm 1954, sau kháng chiến chống Pháp thắng lợi, ông Đào Duy Anh được phong Giáo sư và giữ nhiệm vụ giảng dạy khoa Sử ở trường Đại học Sư phạm và trường Đại học Tổng hợp ở Hà Nội. Trong thời gian dạy học, ông đã đào tạo được một số cán bộ giảng dạy có chất lượng, phần lớn các cán bộ giảng dạy này đã được phong Giáo sư hoặc Phó Giáo sư.

Ông Đào Duy Anh yêu công tác nghiên cứu khoa học đến say sưa. Những năm gặp khó khăn lớn, ông vẫn làm công tác nghiên cứu. Từ điển truyện Kiều là cuốn sách được ông viết ra trong thời gian này. Trong thời gian dạy sử ở các trường Đại học, ông Đào Duy Anh đã nghiên cứu nhiều về cổ sử Việt Nam. Những công trình nghiên cứu này đã được in thành một cuốn sách với cái tên là Cổ sử Việt Nam. Viện Đông phương học của Liên Xô đã dịch Cổ sử Việt Nam. Năm 1950, Viện Khoa học Trung Quốc cũng dịch và in Cổ sử Việt Nam. Cũng trong thời gian này, ông còn viết mấy cuốn sách về địa lí học lịch sử của Việt Nam và viết nhiều bài đăng trên các báo.

Trong cuộc đời của ông Đào Duy Anh, chúng ta có thể rút ra mấy điểm sau đây:

1. Trước sau lúc nào ông cũng là nhà trí thức yêu đất nước Việt Nam và tự hào về đất nước Việt Nam.

2. Ông tin tưởng ở chủ nghĩa xã hội và là một trong những người đầu tiên đem chủ nghĩa xã hội tuyên truyền ở Việt Nam.

3. Tại nhà trường của Pháp, ông chỉ học đến lớp bảy hay lớp tám, nhưng ông vừa làm việc vừa tự học cho nên không những tinh thông chữ Pháp, tinh thông Hán - Nôm mà ông còn hiểu biết rộng rãi nhiều khoa học xã hội khác nữa.

Tóm lại, ông Đào Duy Anh, là nhà học giả lớn, đồng thời cũng là nhà sử học lớn của chúng ta. Ông mất đi là một tổn thất trong giới trí thức chúng ta. Ông đã để lại cho chúng ta một gia tài đáng kể, đó là những tác phẩm, những công trình nghiên cứu lớn nhỏ của ông.

Nếu như trong cuộc đời của một nhân vật, cái di sản đáng quí để lại cho các thế hệ về sau không phải là chức trọng quyền cao, cũng không phải là của cải, vàng bạc, mà là những gì có sức tồn tại lâu dài trong lịch sử, thì ông Đào Duy Anh quả là một nhà văn hóa lớn của chúng ta.                                                                               

Tháng 4 -1988