Giáo sư, Viện sĩ Đào Thế Tuấn nhà nông học uyên bác

Vừa qua, Nhà xuất bản Dân trí phối hợp cùng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn vừa xuất bản cuốn sách "Đào Thế Tuấn - Nhà Khoa học Nông nghiệp uyên bác". Tạp chí Khoa học Phát triển Nông thôn Việt Nam xin giới thiệu bài viết “Giáo sư, Viện sĩ Đào Thế Tuấn nhà nông học uyên bác” của tác giả PGS.TS. Lê Quốc Doanh Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT trong cuốn sách quý nói trên.

Giáo sư, Viện sĩ Đào Thế Tuấn sinh ngày 4 tháng 7 năm 1931 tại thành phố Huế. Nguyên quán cuả ông: Khúc Thủy (nay thuộc xã Cự Khê) - Thanh Oai - Hà Nội. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình trí thức nổi tiếng cả về văn hoá và lòng yêu nước. Trong gia đình họ Đào, rất nhiều người tham gia cách mạng và có nhiều nhà trí thức suất sắc. Bạn bè thân thiết của gia đình cũng là các nhà cách mạng và văn hoá nổi tiếng. Cha ông, cụ Đào Duy Anh, một trong số ít nhân vật Việt Nam được bộ từ điển Larousse ghi danh với tư cách là một nhà bách khoa toàn thư của thời hiện đại. Mẹ ông, bà Trần Như Mân, một nhà giáo và hoạt động xã hội.

GS.VS Đào Thế Tuấn lớn lên trong một môi trường học vấn lý tưởng. Từ bé đã được theo học các trường của Pháp, được tiếp thu có hệ thống nền học vấn cổ điển Tây phương từ tiếng Pháp, tiếng Latinh, tiếng Anh. Không những thế cụ thân sinh còn mời thầy về dạy thêm chữ Hán. Cụ bà Trần Như Mân dòng dõi nhà quan nhưng lại truyền cho con tư tưởng tiến bộ và lòng yêu nghề canh nông. Bà đã dạy cho con cách nuôi tằm để vừa chơi vừa học, nên sau này khi thấy ông theo học nông nghiệp bà đã rất mừng. Những câu chuyện mẹ kể về nổi khổ cực của nông dân và những chuyến đi cùng bố, mẹ về các miền quê đã dần định hình mối quan tâm đến nông nghiệp, nông dân và nông thôn trong tâm hồn non trẻ ông.

t1-1662863857.png

Giáo sư, Viện sĩ Đào Thế Tuấn

Được tham gia tổ chức xã hội từ bé, từ tổ chức Sói Con đến Hướng Đạo Sinh, nên khi Cách mạng Tháng Tám thành công, tuy chỉ mới 14 tuổi, ông đã chủ động tham gia các tổ chức yêu nước, làm liên lạc cho quân đội, rồi trở thành đội viên ít tuổi nhất trong Đội Tuyên truyền Xung phong Trung Bộ. Năm 1950 đang là học sinh chuyên khoa trường Trung học Nguyễn Thượng Hiền, ông đã tình nguyện tòng quân, từng làm việc ở Bộ Tổng Tham mưu, tham gia các chiến dịch Trần Hưng Đạo ở Trung du và Hoàng Hoa Thám ở Đông bắc.

Tháng 8 năm 1953, GS.VS Đào Thế Tuấn là một trong 50  người đầu tiên được chọn đi Liên Xô và học tại trường Đại học Nông nghiệp Tashkent. Năm 1955, khi mới là sinh viên năm thứ ba, ông đã tham gia nghiên cứu khoa học và công trình nghiên cứu đầu tiên của ông là về cây trồng nhiệt đới ở Việt Nam. May mắn cho ông, thời gian đó ông được giáo sư Belov, một người say mê thu thập tài nguyên di truyền và nghiên cứu nguồn gốc cây trồng hướng dẫn, nên ông đã có điều kiện nghiên cứu và xuất bản bằng tiếng Nga cuốn sách đầu tiên về sinh thái và nguồn gốc cây lúa. Cuối năm thứ tư, ông về thực tập ở Trạm Nghiên cứu Lúa Krasnodar (sau này là Viện Nghiên cứu Lúa toàn Liên bang Xô Viết); nghiên cứu về các giai đoạn phát triển của cây lúa dưới sự hướng dẫn của giáo sư Eryghin, một nhà sinh lý nổi tiếng của Liên Xô. Luận văn tốt nghiệp của ông được hội đồng đánh giá cao, cho kéo dài 6 tháng để viết thành luận án Phó Tiến sĩ (Tiến sĩ hiện nay) và ông đã bảo vệ thành công luận án vào năm 1958. Như vậy, chỉ trong 5 năm, ông vừa hoàn thành chương trình đại học, vừa bảo vệ thành công luận án tiến sĩ nông học. Ông là Tiến sĩ đầu tiên của Việt Nam được Liên Xô đào tạo.

Cuối năm 1958, ông về nước và làm việc tại Học Viện Nông lâm với tư cách là giảng viên Môn Sinh lý Thực vật, đồng thời kiêm Trưởng phòng Khoa học của Học viện. Trong thời gian này, với sự hướng dẫn của GS. Bùi Huy Đáp, ông đã khởi xướng một hướng nghiên cứu mới về sinh lý học của năng suất, để xây dựng cơ sở khoa học cho thâm canh cây lúa. Các nghiên cứu về hiện tượng lốp đổ khi cấy dày và bón nhiều phân đạm cho thấy, các giống lúa cổ truyền của Việt Nam không thể cho năng suất cao vì cao cây, dễ đổ. Đây là các gợi ý cho công tác tạo giống thâm canh sau này.

Ngoài các nghiên cứu về phân đạm, GS.VS Đào Thế Tuấn cùng các đồng nghiệp đã đề xuất phương pháp biến lân thành đạm, qua việc bón phân lân cho bèo hoa dâu và điền thanh. Kết quả này đã được trình bày ở Hội nghị Khoa học Bắc Kinh năm 1963 và xuất bản trong cuốn “Phân supe lân và cách sử dụng” (NXB Nông thôn, 1962) và sách “Các biện pháp nâng cao hiệu suất phân hoá học” (NXB Nông thôn, 1965). Cũng trong thời kỳ này, ông được cử làm Trưởng Bộ môn Sinh lý Thực vật của Học viện Nông lâm, kiêm Trưởng phòng Khoa học.

t2-1662863863.png
PGS.TS. Lê Quốc Doanh Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT

Năm 1963, Học viện Nông lâm tách ra thành Viện Khoa học Nông nghiệp và trường Đại học Nông nghiệp, và ông được phân công làm Trưởng ban Trồng trọt kiêm Trưởng phòng Sinh lý Cây trồng của viện. Ban này là tiền thân của các viện: Cây lương thực, Cây công nghiệp, Thổ nhưỡng Nông hóa và Bảo vệ Thực vật sau này.

Lúc bấy giờ bệnh vàng lụi (sau được xác định là bệnh Tungro) đang lan rộng ở miền Bắc, GS.VS Đào Thế Tuấn đã tổ chức nhóm nghiên cứu gồm các nhà khoa học thuộc nhiều bộ môn để xác định nguyên nhân gây bệnh và phát hiện ra rằng, vàng lụi không phải là một bệnh sinh lý mà là bệnh virus do rầy xanh đuôi đen là vectơ truyền bệnh. Tại thời điểm đó, giáo sư và cộng sự đã chú ý tìm các giống kháng bệnh, đề xuất biện pháp canh tác phù hợp như bón kali, làm cỏ sục bùn để hạn chế bệnh. Kết quả nghiên cứu đã phát hiện các giống Tẻ trắng Tây bắc, 813 có khả năng kháng bệnh vàng lụi. Sau này, thông qua các chuyên gia Indonexia, ông đã đưa được về hai giống có khả năng kháng bệnh cao là I-1 và A10. Từ khi có hợp tác với Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế (IRRI), ông cũng góp công đưa giống lúa IR64 về phổ biến ở Việt Nam, trong đó có Điện Biên. Để đến hôm nay, giống lúa này đã trở thành giống phổ biến và đặc sản với tên gọi mới là “Tám Điện Biên”.

Phong trào 5 tấn/ha và việc phát triển vụ lúa Xuân đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu cơ sở khoa học cho thâm canh. Do vậy, từ 1965 nhóm của GS.VS Đào Thế Tuấn bắt đầu nghiên cứu sinh lý của ruộng lúa năng suất cao, với việc phân tích quá trình quang hợp, dinh dưỡng khoáng. Việc chuyển từ nghiên cứu cá thể sang nghiên cứu quần thể ruộng lúa, là một bước phát triển mới của phương pháp tiếp cận hệ thống. Khi nghiên cứu ruộng lúa năng suất cao, cho thấy các giống lúa năng suất cao phải thấp cây, có lá gần thẳng đứng, cho phép thu được nhiều bông, bông dài, tỷ lệ lép thấp. Trên cơ sở các luận cứ khoa học nêu trên, giáo sư đã chỉ đạo xây dựng nhiều mô hình thâm canh tại Kiến Xương - Thái Bình, Khoái Châu - Hưng Yên. Công trình nghiên cứu này đã đặt cơ sở cho việc thâm canh lúa đạt 10 tấn/ha vào những năm 70, và được tổng kết trong cuốn “Sinh lý của ruộng lúa năng suất cao”.

Xác định giống là khâu đột phá, quyết định đến việc tăng năng suất lúa, từ năm 1970, GS.VS Đào Thế Tuấn đã tổ chức nghiên cứu cơ sở sinh lý của việc chọn giống năng suất cao, trong đó chọn giống lúa theo nguồn và sức chứa có vai trò quyết định. Theo hướng này, ngoài nghiên cứu chọn tạo giống cho vùng thâm canh, ông bắt đầu nghiên cứu cơ sở sinh lý của việc chọn giống chống chịu các điều kiện bất thuận như mặn, chua phèn, rét, hạn, ngập úng và kháng bệnh. Kết quả là nhóm nghiên cứu của giáo sư đã chọn lọc và lai tạo được nhiều giống lúa mới như: Giống lúa NN75-10 (X1) chịu bệnh bạc lá (cùng PGS. Tạ Minh Sơn); giống lúa cực ngắn CN2, cho phép làm vụ Mùa sớm, mở rộng vụ Đông; giống lúa CR203 chịu rầy nâu đầu tiên của nước ta (cùng PGS. Nguyễn Công Thuật chọn từ tập hợp dòng của IRRI). Ngoài ra còn có các giống lúa chịu phèn V14 và V15... Ngoài lúa, nhóm của giáo sư còn tạo được giống ngô số 6, giống S1 ngắn ngày và giống ngô nếp S2; các giống đậu tương AK02 và AK03 (cùng với GS. Trần Văn Lài). Cùng với giống, một số biện pháp thâm canh khác như chống rét cho mạ xuân, bón đón đòng cho lúa, bón đạm sâu để tránh mất đạm, trồng ngô bầu, trồng đậu tương đông không làm đất... cũng được nghiên cứu và đề xuất.

Năm 1967, GS.VS Đào Thế Tuấn được Bộ Nông nghiệp cử vào Nghệ An giúp tỉnh chỉ đạo sản xuất nông nghiệp. Tại đây, các ý tưởng về nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng tăng giá trị sản xuất đã được manh nha và tổ chức nghiên cứu. Vấn đề này được ông tổng kết trong cuốn “Bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý ở hợp tác xã” (NXB Nông thôn, 1969) và sau này là cuốn “Cơ sở khoa học của việc xác định cơ cấu cây trồng hợp lý” (NXB Nông nghiệp, 1977).

Từ năm 1978, Bộ môn Sinh thái và Canh tác do GS.VS Đào Thế Tuấn thành lập đã tổ chức nghiên cứu hoạt động của Hệ Sinh thái Nông nghiệp, triển khai việc nghiên cứu hệ thống canh tác của các vùng sinh thái khác nhau, nhất các vùng sinh thái khó khăn như vùng chiêm trũng, vùng phèn mặn, vùng lúa nhờ nước trời thường gặp hạn. Tuy nhiên, khi nghiên cứu hệ thống nông nghiệp, giáo sư phát hiện ra rằng, nếu chỉ đề cập đến các thành phần tự nhiên và kỹ thuật thì sẽ không đầy đủ vì trong thực tế các yếu tố về kinh tế - xã hội mới có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của hệ thống. Vì vậy năm 1988, ông đã lập Bộ môn Hệ thống Nông nghiệp để kết hợp việc nghiên cứu kỹ thuật và kinh tế - xã hôi, nghiên cứu về thể chế nông thôn, nhất là thể chế kinh tế hộ nông dân. Hiện nay, bộ môn này đã được nâng cấp thành Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Hệ thống Nông nghiệp.

Ông cũng là người khởi xướng và chủ trì hợp tác với Viện Khoa học Nông nghiệp Pháp trong Chương trình Hệ thống Nông nghiệp Lưu vực sông Hồng. Các kết quả nghiên cứu về lĩnh vực này đã được tổng kết trong cuốn “Hệ sinh thái nông nghiệp” (NXB Khoa học và Kỹ thuật, 1983) là sách giáo khoa đầu tiên về Sinh thái học Nông nghiệp.

Như vậy, có thể nói GS.VS Đào Thế Tuấn là người đầu tiên ở Việt Nam đã quan tâm đến tiếp cận hệ thống trong khoa học nông nghiệp, từ nghiên cứu hệ thống ruộng lúa đến hệ thống cây trồng rồi hệ thống nông nghiệp. Để phát triển hướng nghiên cứu này, ông đã thành lập nhóm nghiên cứu mà sau này trở thành Bộ môn Toán máy tính, đặt ở Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, chuyên nghiên cứu về các mô hình phát triển nông nghiệp trong mối quan hệ với các mô hình kinh tế chung của cả nước.

Trên cơ sở các nghiên cứu về kinh nghiệm phát triển nông nghiệp của nước ngoài, GS.VS Đào Thế Tuấn đặc biệt quan tâm đến việc áp dụng các đòn bẩy kinh tế trong nghiên cứu khoa học và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, cũng như mô hình cải cách kinh tế và mô hình tổ chức sản xuất trong nông nghiệp của các nước. Năm 1987, ông viết tài liệu “Cải cách kinh tế ở Trung Quốc” được UBKHKTNN xuất bản và có đóng góp tích cực trong việc ra đời Nghị quyết 10 năm 1988.

Sau này, khi đã nghỉ điều hành rồi nghỉ hưu vào năm 2004, GS.VS Đào Thế Tuấn vẫn miệt mài nghiên cứu các vấn đề kinh tế hộ nông dân, chuỗi giá trị, thể chế trong phát triển nông thôn... với mong muốn tìm ra hướng mới cho nông thôn phát triển; ông đã đề xuất thành lập và lãnh đạo Hội Khoa học Phát triển Nông thôn. Các kết quả nghiên cứu sau này của ông được xuất bản trong cuốn sách “Kinh tế hộ nông dân” (NXB Chính trị quốc gia, 1997).

Nhận thấy nguồn nhân lực luôn là yếu tố quyết định đến thành bại của bất kỳ hoạt động nào, GS.VS Đào Thế Tuấn đã cố gắng tổ chức và trực tiếp đào tạo nhiều nhà khoa học; ông cũng liên hệ để gửi đi đào tạo tại nước ngoài hàng chục Tiến sĩ, Thạc sĩ. Bản thân ông, với kiến thức uyên bác, năng lực ngoại ngữ phi thường, ông đã tham gia nhiều diễn đàn, hội nghị khoa học quốc tế để giới thiệu về nền khoa học nông nghiệp và văn hoá Việt Nam đồng thời nắm bắt xu thế khoa học của thế giới để áp dụng vào điều kiện cụ thể của nước nhà.

Là một người lãnh đạo, một nhà trí thức lớn, nhưng ông lại rất gần gũi với đồng nghiệp, bạn bè không phân biệt lứa tuổi, trình độ. Ai cũng có thể nhận được ở ông sự góp ý chân thành với nụ cười thường trực, một tâm hồn trẻ trung và đôi khi rất hồn nhiên. Chính vì vậy, ông được các nhà lãnh đạo tôn trọng, tin tưởng, được đồng nghiệp yêu quý.

Ngoài tư cách là một nhà khoa học hàng đầu, GS.VS. Đào Thế Tuấn cũng được tin tưởng giao nhiều trọng trách: Phó Viện trưởng (1976), rồi Viện trưởng Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam (1983). Năm 1990, ông đảm đương vai trò Phó Chủ nhiệm Chương trình Nghiên cứu cấp Nhà nước về Phát triển Nông thôn KX-08.

GS.VS. Đào Thế Tuấn còn là một đảng viên trung kiên với trên 60 năm tuổi đảng. Ông được nhà nước phong học hàm giáo sư năm 1980, được bầu làm thành viên nước ngoài của Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Liên Xô, sau này là Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Liên bang Nga.

Với những cống hiến to lớn cho cuộc kháng chiến và cho nền khoa học nước nhà, GS.VS. Đào Thế Tuấn đã được tặng thưởng Huân chương Chiến thắng Hạng Ba, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước Hạng Nhất, Huân chương Lao động Hạng Hai. Năm 2005 ông được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về Khoa học Công nghệ. Năm 2000, ông được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động. Ngoài ra, ông cũng được nhận nhiều phần thưởng của Cộng hoà Pháp như: Huân chương Công trạng Nông nghiệp Hạng Nhất, Hạng Hai, Hạng Ba; Huân chương Cành cọ Hàn lâm Hạng Hai và Giải thưởng René Dumont.

Giáo sư Đào Thế Tuấn, một trí thức tài hoa, một đảng viên yêu nước từ thủa ấu thơ; khi có giặc thì cầm súng bảo vệ tổ quốc, khi hoà bình thì nghiên cứu canh nông nuôi sống con người; một cán bộ lãnh đạo không màng đến quyền lợi cá nhân, thật là một tấm gương lớn, một nhà khoa học say mê với kiến thức, luôn chăm lo đào tạo cho thế hệ tương lai.