Nhớ những chia sẻ tâm huyết của cố Bộ trưởng Lê Huy Ngọ về nông nghiệp và phát triển nông thôn

Trong một lần chia sẻ đầy tâm huyết với báo giới lúc sinh thời, nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Huy Ngọ đã không chỉ bàn về các chính sách vĩ mô mà còn gửi gắm những chiêm nghiệm giản dị về cuộc sống và giá trị của người nông dân.

Ông mở đầu bằng một lời cảnh tỉnh thẳng thắn, dường như đi ngược lại xu thế chung của xã hội: Đừng tưởng xe hơi, nhà lầu mà đã sướng. Ông tin rằng chưa chắc đã sướng bằng anh nông dân có ruộng đất, có ao, có vườn, có sản xuất hàng hóa, bán được, có tiền xây nhà to, thậm chí đã có ô tô và có giúp việc. Thực tế cho thấy rất nhiều người sau khi ra thành phố không chịu nổi áp lực đã quay về mua ruộng, thuê ruộng làm nông nghiệp, bởi đó là một cách sống chứ không hoàn toàn là kiếm sống. Sống chậm, gắn với thiên nhiên, nấu một nồi cơm, hái một ít rau của mình làm ra mà ăn sướng hơn đi mua rất nhiều.

img-1167-1763944728.jpeg
Cố Bộ trưởng Lê Huy Ngọ. 

Dù người ta thường nhìn vào khuôn mặt khắc khổ của ông, thấy mênh mông biển nước lũ và hình ảnh một bộ trưởng quần xắn lên tận đùi lội bì bõm, nhưng chính những ngày tháng ngồi câm nín chăm sóc cho đứa con dị tật đã giúp ông thấy được sự bình yên của riêng mình. Ông hiểu rằng, những câu chuyện tế nhị đôi khi cần phải cân nhắc, nên ông luôn cẩn trọng trong từng lời nói, từng bản thảo trước khi công bố.

Bàn về nông hộ, ông thừa nhận rằng bằng phương thức nông hộ nhỏ, chúng ta đã sản xuất hàng hóa lớn, tạo ra sáu đến bảy mặt hàng có vị thế trong khu vực và trên thế giới như lúa gạo, cà phê, tiêu, điều, tôm, cá tra. Đó là sự thật. Tuy nhiên, vấn đề bức xúc hiện nay là nông hộ nhỏ lẻ, năng suất thấp, chất lượng thấp, và khả năng cạnh tranh rất yếu. Sản xuất nông hộ nhỏ là sự kế tục và phát huy của khoán hộ, nó trao lại ruộng đất cho nông dân, cho họ quyền sử dụng và quyền hưởng thụ thành quả lao động của mình. Ruộng đất coi như tài sản của họ, thỏa mãn khát vọng lớn lao của người nông dân.

Ông phân tích, trong nông nghiệp, dù có những bước phát triển lớn về khoa học công nghệ, sản xuất vẫn phải thông qua sinh vật sống và rất nhạy cảm với thời tiết thiên tai. Vì thế, trực canh, trực tiếp quản lý, trực tiếp lao động trở thành một phương sách quản trị hiệu quả nhất. Hộ nhỏ còn gắn với việc sử dụng lao động khôn khéo, tổng hợp sức lao động của cả gia đình, từ già đến trẻ, tạo nên năng suất cao hơn rất nhiều. Ông nhắc lại câu chuyện khoán hộ của Vĩnh Phú năm 1968, khi chỉ còn lại người già và phụ nữ ở nhà, ông Kim Ngọc đã phải tìm cách quản lý lao động để làm nông nghiệp.

Ông lý giải vì sao nông dân vẫn khư khư giữ ruộng, thà cho thuê chứ không bán. Thửa ruộng gắn bó với người nông dân như một thứ song hành trong quá trình lịch sử, là nơi sản xuất, là văn hóa, là cuộc sống. Ruộng đất là sự đảm bảo trước mọi cuộc bể dâu, chiến tranh xâm lược hay những sự cố xã hội. Ông tha thiết: phải thương nông dân, thông cảm với họ, đừng chê họ bảo thủ.

Về định hướng sắp tới, ông Ngọ cho rằng nông hộ luôn đồng hành cùng nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn, và phải tổ chức lại. Ông chia ra ba mô hình: Hộ nhỏ liên kết qua Hợp tác xã (HTX); Trang trại quy mô vừa; và doanh nghiệp công nghệ cao. Ông đặc biệt lưu ý về hai điều lạ ở nông thôn Việt Nam mà các chuyên gia Nhật Bản từng chỉ ra: Thứ nhất là người nông dân sợ liên kết vì bị lừa nhiều quá; Thứ hai là nhìn cánh đồng rộng mà không thấy hộ nào có diện tích lớn, đó là hậu quả của việc chia đất bình quân theo đầu người.

Ông kết luận, phải công nghiệp hóa nông nghiệp, tạo ra hệ thống dịch vụ nông nghiệp bền vững. Muốn tích tụ ruộng đất, phải công nhận đất đai là tài sản của nông dân và phải thương lượng trên cơ sở thỏa thuận giá thị trường. Nguyên tắc tối thượng là trực canh, không được phát canh thu tô.

Qua những tâm sự sâu sắc của cố Bộ trưởng Lê Huy Ngọ, chúng ta có thể rút ra 7 bài học mang tính định hướng cho sự phát triển nông nghiệp và nông thôn Việt Nam trong kỷ nguyên mới:

 (1) Giá trị nhân sinh: Phát triển kinh tế phải gắn liền với việc cung cấp "cách sống" bền vững, tôn trọng sự lựa chọn lối sống hòa hợp với thiên nhiên của người dân.

2) Quyền tài sản: Tuyệt đối tôn trọng quyền sử dụng đất đai của nông dân, xem ruộng đất là tài sản và sự đảm bảo cuối cùng của họ.

(3) Quản trị trực canh là cốt lõi: Nguyên lý "trực canh" là cốt lõi cho mọi quy mô sản xuất nông nghiệp. chính sách đất đai phải đảm bảo người sử dụng đất gắn bó trực tiếp với việc canh tác, nghiêm cấm phát canh thu tô.

(4) Tái cấu trúc và mô hình ba chân kiềng: Không xóa bỏ nông hộ, mà phải tổ chức lại theo ba mô hình song hành: hộ nhỏ liên kết qua HTX, trang trại quy mô vừa, và doanh nghiệp công nghệ cao.

(5) Nền tảng công nghiệp hỗ trợ: Muốn có nông nghiệp hiện đại, bắt buộc phải có nền công nghiệp hỗ trợ nông nghiệp hiện đại và tự chủ, thay vì phụ thuộc hoàn toàn vào nhập khẩu.
 
(6) Liên kết và dịch vụ qua HTX: Tập trung xây dựng hệ thống HTX kiểu mới mạnh mẽ, có khả năng cung cấp đầy đủ dịch vụ đầu vào, đầu ra, và đại diện cho nông hộ trong chuỗi giá trị.

(7) Lòng tin và sự thấu cảm: Các nhà quản lý và doanh nghiệp phải xây dựng lòng tin với nông dân bằng sự minh bạch và công bằng, thấu hiểu nỗi sợ bị lừa dối của họ để thúc đẩy sự liên kết.

Tóm lại, từ những chiêm nghiệm của cố Bộ trưởng Lê Huy Ngọ đã mở ra một hướng đi không chỉ mang tính kinh tế mà còn sâu sắc về mặt nhân văn. Sức mạnh của nông nghiệp Việt Nam nằm ở sự kết hợp giữa nông hộ cần mẫn và nguyên tắc trực canh gắn liền với đất đai. Bài học cuối cùng là sự phát triển bền vững phải đặt nền móng trên sự tôn trọng tuyệt đối quyền của người nông dân đối với ruộng đất, tài sản và sự đảm bảo lớn nhất của họ. Bằng cách xây dựng các Hợp tác xã vững mạnh và phát triển công nghiệp hỗ trợ, chúng ta sẽ biến nông nghiệp thành lĩnh vực không chỉ kiếm sống mà còn mang lại cách sống thịnh vượng, củng cố vị thế và sự ổn định dài lâu cho đất nước.