Những ngày Tết kháng chiến đầu tiên của Bác Hồ qua lời kể của nhà báo Sơn Tùng

Sinh thời, trên chiếu văn trong căn phòng nhỏ ở ngõ Văn Chương (Hà Nội) của nhà báo Sơn Tùng luôn vang tiếng đàm đạo ấm áp của các văn nghệ văn nghệ sỹ trong nước, các nhà nghiên cứu Hồ Chí Minh thế giới và lớp trẻ tìm đến nhằm có thêm hiểu biết, thêm tư liệu về Bác Hồ từ người có hiểu biết sâu sắc về Bác của Nhà báo Sơn Tùng - một nhà văn đặc biệt với ý chí sống và sức sáng tạo phi thường.

Nhà văn Sơn Tùng đã đi về cõi vĩnh hằng từ những năm trước nhưng giọng nói trầm ấm rõ ràng của ông về những ngày Tết kháng chiến đầu tiên của Bác Hồ vẫn luôn vang vọng trong tôi. Nhân không khí Tết của đất nước vào tuổi 80 và kỷ niệm 135 năm ngày sinh của Bác, bài viết hy vọng được chia sẻ cùng bạn đọc những hồi ức vể những ngày tết kháng chiến đầu tiên chống thực dân xâm lược Pháp của cả dân tộc.

v58tsqx9-1737025949.jpg

Nhà văn Sơn Tùng kể lại, sau lễ tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) ngày 2 tháng 9 năm 1945 không được bao lâu, thực dân Pháp trở lại gây hấn ở Nam Bộ. Trong muôn vàn khó khăn, hiểm nguy, sau gần 4 tháng sang Pháp trở về, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng Chính phủ và thường vụ Quốc hội lo những công việc lớn, tìm nhiều giải pháp nhưng vẫn không tránh khỏi họa xâm lăng. Toàn dân đã phải đứng lên tự vệ. Ngày 19 tháng 12 năm 1946 toàn quốc kháng chiến bắt đầu. Các cơ quan Chính phủ, Quốc hội và Quân Dân chính Đảng đã lần lượt rời khỏi Thủ đô để cùng cả nước tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ.

Bác Hồ tạm lánh về xã Cần Kiệm thuộc đất Sơn Tây. Chiều 30 Tết năm Đinh Hợi (21/1/1947) Hội đồng Chính phủ họp ở phủ Quốc Oai (Sơn Tây), trời mưa rét, đường trơn như đổ mỡ, các thành viên Chính phủ và Thường vụ Quốc hội đã về đông đủ song vẫn chưa thấy Bác đến. Trời tối dần, nỗi lo bắt đầu lan rộng, khoảng 9 giờ tối trong nỗi bồn chồn, lo lắng của nhiều đại biểu, Bác bất ngờ gỡ khăn áo cải trang bước vào phòng họp. Mọi người thở phào nhẹ nhõm khi được biết, xe đi đón Bác dọc đường bị sã xuống ruộng, bà con các thôn xã ven đường phải đốt đuốc khênh lên, mừng cho những người gặp nạn chưa đến giao thừa, cũng may là chưa ai nhận ra Bác đứng khuất nèo phía sau ánh đuốc.

Cuộc họp tất niên trong đêm không pháo, không bánh chưng, không rượu, không giò.... sau lời chúc Tết của Chính phủ và Thường vụ Quốc hội, Cụ Bùi Bằng Đoàn trưởng ban Thường vụ Quốc hội, thay mặt mọi người cảm ơn và chúc Tết Bác. Cuộc họp trong vòng 2 giờ đã bàn nhiều vấn đề cấp bách phải khẩn trương làm không chờ nghỉ Tết, 12 giờ khuya, ai nấy đều phải trở về nơi làm việc của mình.

Bác lại lên xe, chiếc xe ọc ạch đưa Bác chạy theo hướng về phía chùa Trầm. Trong đêm đông giá lạnh Bác đi vào hang núi, nơi đặt hệ thống phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam để đọc thơ Xuân Đinh Hội và chúc Tết đồng bào cả nước và Việt kiều đang ở nước ngoài. Khi Bác lên đường đến Trầm Sơn, cụ Bùi Bằng Đoàn cùng Bộ trưởng Phan Anh cũng lên đường về nơi tạm lánh, giữa đưỡng xe bị nổ lốp. Chờ sửa chữa trong đêm, Bộ trưởng đã kịp hoàn thành một câu đối về cuộc kháng chiến trườngng kỳ, ông vội đưa ngay trình cụ Đoàn.

Đọc vế 1 Súng đạn thay pháo, địa đạo thay tranh; Bộ đội là gia đình, Tết chiến sĩ dương cao nền độc lập. Cụ Đoàn tâm đắc đọc tiếp ngay vế sau Nguy hiểm là thầy. Gian nan là bạn lạn, Bắc Nam chung Tổ quốc; tuổi thanh xuân thắt chặt mối đồng tâm. Xúc động lặng người, rồi với giọng thâm trầm cụ nói, bình luận là thừa chi xin lưu ý giữa tuổi thanh xuântuổi trẻ già. Bộ trưởng tâm đắc hiểu ý sửa ngay và vế sau đã được đổi thành Nguy hiểm là thầy. Gian nan là bạn lạn, Bắc Nam chung Tổ quốc; tuổi trẻ già thắt chặt mối đồng tâm.

Bác chúc Tết đồng bảo cả nước xong lại lên đường trở vê Cần Kiêm giữa đêm đông giá lạnh. Rời khỏi chùa Trầm đã qua giờ Sửu, mưa càng thêm nặng hạt, đến lối rẽ vào chùa Tây Phương cả 2 bánh xe lại bị sa xuống ruộng. Nhưng may là chưa bị lật. Mọi người hoảng hốt, riêng Bác bình tĩnh nói vui Ngày đầu năm chúng ta gặp họa, nhưng phúc có ngay trong họa, phúc đã đỡ họa rồi. Đây là điềm vui!

Rạng sáng, anh cả Nguyễn Lương Bằng, anh Cẩn (Vũ Kỳ) cùng mọi người đi cứu xe giữa trời đông giá lạnh. Như thường lệ. Bác dậy từ rất sớm đi mấy đường quyền rồi lại ngồi làm việc. Kể lại những kỷ niệm này, anh Cẩn mắt rưng rưng lệ nói với mọi người “Chúng tôi khiêng được xe lên và mang đến nơi ẩn gửi, gia chủ thành tâm mời ở lại cùng cả gia đình ăn Tết. Ngồi vào mâm cỗ thịnh soạn, chúng tôi ứa nước mắt nhớ Bác ở nhà, giờ này chắc Người còn đang cố để viết cho xong vấn đề Du kích”.

Chiều mồng một Tết, một số người đi chúc Tết bà con trong thôn được mời ở lại ăn Tết. Tại cơ quan chỉ còn anh Trần Đăng Ninh và anh Cẩn ngồi ăn cơm nguội, Bác ăn cơm độn sắn với canh rau cải, Anh cẩn nói vui”: Bác ơi! Bác ăn canh rau cải phải đi giải nhiều”? Bác cười hỏi lại Thế Chú có nhớ ca dao nói gì không? Rồi với giọng ôn tồn Bác đọc: “Không canh nào bằng canh rau cải/ Chẳng đạo ngãi nào bằng nghĩa vợ chồng”.

Tối mồng một Tết, trời mưa thêm nặng, gió lọt qua phên liếp lạnh đến thấu xương Bác bảo nhóm lửa giữa nhà rồi cùng anh Cả, anh Ninh và những người giúp việc ngồi quây quần bên nhau như đêm lửa trại. Tới khuya, anh Nhân (Trường Chinh), anh Văn (Võ Nguyên Giáp) quần sắn qúa gối, chân bê bết bùn đất hé liếp bước vào. Hỏi ra mới biết, 2 anh "xuất hành" đi chúc Tết Bác, định đến từ sớm để bàn một số công việc khẩn cấp, nhưng xe đã bị sa lầy. Bác cùng anh Nhân, Văn, anh Cả, anh Ninh ngồi quanh bếp lửa họp bàn... những người còn lại vội vã đội mưa đi cứu xe. Khi đưa được xe lên cũng vừa lúc chuông chùa Tây Phương báo sáng Tiễn anh Nhân anh Văn ra về bên thềm lập lòe ánh lửa, Bác ân cần dặn lại 2 anh” Ngồi bên bếp lửa ấm, ra đim ngay dễ bị lạnh, phải dừng lại mấy phút cho quen dần rồi các chú hãy đi...”

Ra Tết, Hội đồng Chính phủ họp phiên đầu năm vào ngày 12 tháng Giêng âm lịch (12 Tháng 2 năm 1947) cũng ở phủ Quốc Oai. Mở đầu Bác đề nghị ai có thơ Xuân hay câu đối Tết xin đọc làm đà cho Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi; Thống nhất, độc lập nhất định thành công. Sau lời giới thiệu của cụ Bùi, Bộ trưởng Phan Anh liền đọc 2 vế đối     

Cha, ông hương khói lạnh, con cháu cỗ bàn suông; khắp 3 kỳ còn nếm nỗi gian truân, buổi Tết đến càng căm thù quân cướp nước Tổ quốc cõi bờ yên, non sông Nam Bắc hợp; mấy mươi triệu đồng bào thề quyết thắng, bước vinh quang sẽ hẹn lúc về nhà.

Bộ trưởng Phan Anh dứt lời, Bác ứng khẩu đọc ngay một câu “Kiều lẩy”

Rằng hay thì thật là hay. Khẩn trương kháng chiến hẹn ngày bình sau.

Cụ Tôn (Tôn Đức Thắng) ghé tai nói nhỏ cùng cụ Bùi “Ông ạ! Thánh thật, sống xa đất nước trên 30 năm mà hầu như Cụ không phai nhạt một thứ gì là của Việt Nam ta. Cụ Bùi mãn ý dấp lời “Cụ Hồ thuộc về Thiên nhân, Tuệ giác”

Sau kỳ họp này, Bác không về lại Cần Kiệm mà ở lại Sài Sơn. Anh Trần Đăng Ninh đã vận động được sư Cụ chùa Thầy, để Bác ở trên lưng chừng của chùa Một Mái. Bác làm việc trong vòm đá núi Sài. Chùa có sân rộng, vắng vẻ. Bác nhờ anh Văn, anh Cẩn giúp tập đi xe đạp để lúc cần có thể chủ động đối phó được mọi tình huống.

Khi lực lượng vũ trang cuối cùng Trung đoàn Thủ đô rút khỏi Hà Nội an toàn vào ngày 22 tháng 2 năm 1947, các cơ quan Trung ương lần lượt lên chiến khu Việt Bắc, Bác mới chuyển đến châu Tự do (Tuyên Quang) và từ đây, Người đã trải qua 7 cái Tết trên vùng núi cao lạnh giá của những năm kháng chiến trường kỳ. Cho dù ở đâu, Bác cũng đều rất quan tâm đến mọi tầng lớp dân cư, nhất là lớp người cao tuổi sống nơi lửa đạn và chốn ngàn sâu mỗi khi Tết đến Xuân về./.

Tết Ất Tỵ 2025