Những vấn đề cần quan tâm trước tình trạng “Sức khỏe đất” trồng trọt của Việt Nam đang có nguy cơ bị suy thoái và ảnh hưởng tới sức sản xuất nông sản của Việt Nam

Khái niệm về “Sức khỏe Đất” (Soil Health): Sức khỏe của đất có thể được định nghĩa là trạng thái tối ưu của các chức năng sinh học, vật lý và hóa học của đất hay khả năng của đất để duy trì năng suất, sự đa dạng và các dịch vụ môi trường của các hệ sinh thái trên cạn. Sức khỏe đất rất biến động (luôn luôn ở trạng thái động), được đặc trưng bởi tổng hợp các thuộc tính Vật lý đất (thành phân cấp hạt, tỷ trọng …), hóa học đất (Hàm lượng và trạng thái của các nguyên tố dinh dưỡng Đa; Trung và Vi lượng trong đất) và tính chất sinh học của đất (thành phần, mật số Vi sinh vật; thành phần côn trùng trong đất); Lớp thảm thực vật (Thành phân và tình trạng sinh trưởng) có thể đo lường được, liên quan đến các quá trình chức năng của đất. Chất lượng đất phụ thuộc vào Đá Mẹ của đất (Độ phì tự nhiên), sức khỏe đất chịu sự tác động của địa hình và tập quán chế độ canh tác (độ phì thực tế đất).

d8aa93f74e65c33b9a74-1761556569.jpg

Những vấn đề cần quan tâm trước tình trạng “Sức khỏe đất” trồng trọt của Việt Nam đang có nguy cơ bị suy thoái và ảnh hưởng tới sức sản xuất nông sản của Việt Nam

Nước Việt Nam có tổng diện tích tự nhiên: 33,1 triệu ha: Trong đó Đất nông nghiệp: 28,0 triệu ha (chiếm 84,5 %), Đất sản xuất nông nghiệp: 11,6 triệu ha (chiếm 41,4 %). Trong đó: Đất trồng cây hàng năm: 6,7 triệu ha; Đất trồng lúa: 3,9 triệu ha; Đất trồng cây hàng năm khác: 2,8 triệu ha; Đất trồng cây lâu năm: 4,9 triệu ha. Trong 11,6 triệu Ha đất NN thì có 75 % diện tích là đất dốc (50% diện tích có độ dốc lớn hơn 20O nghĩa là có khoảng 4.350 000 Ha).

Đối với đất sản xuất nông nghiệp trên các vùng đồi núi, đất dốc ở phía Bắc thì chịu tác động mạnh của xói mòn và rửa trôi, lớp đất mặt thường bị bào mòn mạnh Hàm lượng hữu cơ trong đất suy giảm mạnh do canh tác quảng canh không bón phân hữu cơ hoặc bón phân không hợp lý (các vùng đất dốc thuộc các tỉnh, Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai và Yên Bái). Hàm lượng hữu cơ giảm < 1,0% (vùng trồng ngô, sắn) ; Hàm lượng đạm (N), Lân(P) dễ tiêu và Kali(K) dễ tiêu đều ở mức nghèo ; Thành phần cơ giới của lớp đất mặt (Cấp hạt trong đất) cũng bị thay đổi, tỷ lệ sỏi sạn ở lớp đất mặt tăng cao do các hạt mịn đã bị rửa trôi trong mùa mưa, pH đất chỉ dao động từ 4,2-5,0, thậm chí 3,8-4,0 (vùng chè Mộc Châu).

Đối với đất nông nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng thì không còn phù sa bồi đắp hàng đối với vùng hạ du; Hệ số sử dụng đất tăng cao; Lạm dụng phân vô cơ, ít sử dụng phân hữu cơ; Phát triển các làng nghề, khu công nghiệp do vậy nên hàm lượng Các bon hữu cơ trong đất bị suy giảm đáng kể, một phần do nước ta thuộc khu cực đất Nhiệt Đới nên tốc độ tich lũy chất hữu cơ < tốc độ phân hủy C,  do vậy tỷ lệ C/N trung bình chỉ dao động từ 8-10, đất bị chai cứng, mất kết cấu, dung tích hấp thu đều giảm; sử dụng nguồn nước ô nhiễm giàu Các bon và Đạm (N) làm cho cây trồng phát triển nhanh song đất canh tác đang đối mặt với nhiễm hữu cơ và ô nhiễm kim loại nặng, hàm lượng kim loại nặng trong đất đã tăng lên đáng kể và ảnh hưởng đến chất lượng nông sản (nguy cơ ảnh hưởng tới nông sản xuất khẩu.

Đối với đất vùng Tây Nguyên (trồng Cà phê; Hồ tiêu và các cây công nghiệp) thì hàm lượng Các bon hữu cơ trong đất trung bình từ 1,2-2,5% thấp hơn rất nhiều so với đất rừng tự nhiên 5,14%, pH đất trồng Cà phê và Hồ tiêu dao động từ 3,1-4,6 trong khi đó ở đất rừng tự nhiên là 5,6. Hàm lượng Lân (P) và Kali (K) dễ tiêu trong đất Đỏ trồng Cà phê và Hồ tiêu đều tích lũy ở mức khá cao gấp 7-10 lần.  Hàm lượng Lưu huỳnh (S) trong đất cũng tích lũy ở mức cao gấp nhiều lần so với đất rừng tự nhiên (Do bón quá nhiều phân 16-16-8 +13 S của Philphos).Đối với đất sản xuất lúa vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thì do canh tác độc canh 3 vụ lúa/năm, ruộng thường xuyên ngập nước; Bón phân không cân đối; Biện pháp canh tác chưa phù hợp; Ruộng thường xuyên bị ngập nước cùng với rơm rạ chưa xử lý được phơi ải mà đã bị trục và vùi vào đất nên đất bị bạc màu, mất cân đối dinh dưỡng, thiếu trung vi lượng và chất hữu cơ; ngộ độc hữu cơ (do hữu cơ bán phân giải sinh nhiều acid làm pH đất giảm) ; Tính chất vật lý đất, độ chặt tăng lên, độ xốp giảm, khả năng giữ nước của đất ngày một kém đi. Hệ vi sinh vật có vai trò quan trọng trong cải thiện cấu trúc đất, chuyển hóa dinh dưỡng trong phân bón cung cấp cho cây trồng, phân giải các chất hữu cơ trong đất, chuyển hóa các chất khó tan thành chất dễ tan giúp cây trồng hấp thụ dễ dàng, giải phóng các chất khoáng bị giữ chặt trong đất thành dạng dễ tiêu cho cây hấp thụ. Hệ vi sinh vật có vai trò quan trọng trong cải thiện cấu trúc đất, chuyển hóa dinh dưỡng trong phân bón cung cấp cho cây trồng, phân giải các chất hữu cơ trong đất, chuyển hóa các chất khó tan thành chất dễ tan giúp cây trồng hấp thụ dễ dàng, giải phóng các chất khoáng bị giữ chặt trong đất thành dạng dễ tiêu cho cây hấp thụ.

Tóm lại sau gần 50 năm, tình hình đất trồng NN của VN có nhiều biến động: Ví dụ: Thay đổi diện tích đất mặn tại ĐBSCL sau 30 năm: Năm 1975706.48 Ha thì đến 2005 đã tăng lên 884.200 Ha (Tăng 177.775 Ha đất mặn và nhiễm mặn). Đất bị khô hạn, hoang mạc hóa: Nắng nóng gia tang, lượng nước ngọt đổ về từ thượng nguồn giảm, lượng mưa hàng năm giảm đẩy nhanh quá trình hoang mạc hóa, ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe đất. Hiện có 3  vấn đề thường xuyên ảnh hưởng tới Sức khỏe đất cần có giải pháp để khắc phục ngay:

1) Trên đất dốc khu vực Tây Nguyên thường bị khô hạn năng về cuối mùa khô, bà con Nông dân không đủ nước tưới nên việc cần làm là triển khai nhiều đập Thủy lợi tại các thung lũng để tích nước phục vụ tưới cho cuối mùa khô đồng thời duy trì thảm thức vật. Có như vây mới bảo vệ được quàn thể Vi sinh vật đất (thành phần làm tăng sức khỏe đất.

2) Tại ĐBSCL diện tích đất bị nhiễm mặn và ảnh hưởng của nước mặn vào cuối mùa khô tăng cao. Nước mặn xâm thực > 70 Km đã anh hưởng tới Sức khỏe đất rất lờn. Đề nghị Bộ Nông nghiệp sớm có giải  pháp đào hồ chứa nước ven sông Tiền và sông Hậu (phía trên thượng nguồn) để trữ nước chống hiện tượng Hạn-Mặn. Tháo bỏ các hệ thống ngăn lũ cục bộ để đón nhận Phù Sa và thủy sản của sông MêKong. Ngoài ra công tác thủy lợi như nạo vét cửa lấy nước, hệ thống kênh mương, đào ao, giếng, đắp đập tạm ngăn mặn, lắp đặt trạm bơm dã chiến, đầu tư xây dựng các công trình kiểm soát mặn đóng vai trò rất quan trọng. Và việc chủ động tích trữ nước sớm, tại chỗ của người dân ngay trong mùa mưa, lắp đặt các vòi nước công cộng. Những điều trên đã giúp giảm thiểu được thiệt hại cho vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Tuy nhiên vẫn còn tình trạng thiếu nước ngọt cục bộ (Gò Công Tiền Giang; Sóc Trăng...) và thiếu nước ngọt cho cây Ăn trái ở các tỉnh ĐBSCL. Cần ngay giải pháp tích trữ và điều tiết nguồn nước ngọt hợp lý. Hiện tại, ĐBSCL có 1,82 triệu ha đất phục vụ trồng lúa, trong đó có 1,7 triệu ha chuyên canh lúa, 185.000 ha luân canh lúa – màu (ngô, đậu tương, rau màu) và  240.000 ha luân canh lúa – thủy sản. Nếu gặp hạn hán và xâm mặn như 4 tháng đầu năm 2016 thì chúng ta mất trắng khá nhiều diện tích lúa vụ Đông-Xuân và khó có thể tiếp tục canh tác trong vụ Hè –Thu do thiếu nước ngọt. Ngoài ra, nguy cơ ngập lụt có thể phát triển diện rộng vào thời điểm từ cuối tháng 9 đến đầu tháng 11 dương lịch. Như vậy, bài toán đặt ra là phải biết tích trữ và điều tiết nguồn nước ngọt của dòng Mêkong từ thượng nguồn đổ vế. Chúng ta chỉ cần dành ra từ 3-5 % tổng diện tích trồng Lúa để đào hồ chứa nước ngọt dọc theo 2 bên bờ sông Tiền và sông Hậu thì chúng ta sẽ có từ 54.600 Ha đến 91.000 Ha mặt nước. Nếu hồ chứa có chiều sâu 2m thì mỗi năm sau khi lũ đổ về chúng ta đã trữ được 1,1tỷ m3 đến 1,82 tỷ m3 nước ngọt để lưu trữ phục vụ cho tưới tiêu cây trồng cạn hoặc canh tác lúa nếu gặp hạn hán. Ngoài ra, với tổng diện tích mặt nước và tổng khối lượng nước được tồn trữ sẽ góp phần làm giảm áp lực và chiều sâu ngập lũ tại các vùng trũng ở ĐBSCL (Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên…), đồng thời cũng đồng nghĩa vơi việc chúng ta có thêm một lượng diện tích mặt nước không nhỏ để phục vụ cho việc nuôi trồng thủy sản nước ngọt. Với tổng diện tích mặt nước như vậy cũng sẽ góp phần cải thiện môi trường và tiểu khí hậu tại ĐBSCL. Đề nghị, chính phủ chỉ đạo các bộ ngành chức năng và lãnh đạo 13 tỉnh ĐBSCL phối hợp nghiên cứu, qui hoạch hợp lý cho đề xuất trên của chúng tôi nhằm góp phần phòng tránh và ứng phó có hiệu quả với hạn hán và xâm mặn. Chúng tôi hoàn toàn tin rằng việc dành ra 3-5 % số diện tích trồng lúa phục vụ cho giải pháp trên chắc chắn không làm giảm sản lượng lúa của vùng mà còn cải thiện và nâng cao hiệu quả nông học và hiệu quả kinh tế cho sản xuất nông nghiệp.

3) Hiện chúng ta canh tác chưa cân đối giữa phân hóa học (vô cơ) và hữu cơ nên cần khuyên cáo và có giải pháp hỗ trợ các Doanh nghiệp và nông dân sản xuất phân hữu cơ. Hiên tại, ngành Nông nghiệp đang có 15 triệu tấn phế phụ phẩm/ Năm. Nếu tiến hành Ủ phân với công ghệ cao (nâng cao chất lượng) và sản xuất than sinh học (Biochar) thì góp phần tăng sức khỏe đất. Sản xuất nông nghiệp ở nước ta chủ yếu sử dụng phân bón hóa học lâu ngày đất kém đa dạng sinh học, đất bị thoái hóa ngày càng nghiêm trọng, cây trồng kém phát triển và phát sinh nhiều sâu bệnh. Việc lạm dụng hóa học đã làm cho sản xuất nông nghiệp nước ta kém bền vững, hiệu quả kinh tế thấp, nhất là đất đai ngày càng thoái hóa, cạn kiệt. Cách khắc phục hiện nay, không có con đường nào khác, phải thay đổi tập quán và nhận thức trong sản suất nông nghiệp, không lạm dụng hóa học, canh tác theo hướng hữu cơ là chính (trong sản xuất vẫn có bón phân hóa học nhưng không lạm dụng). Tuy nhiên, nếu trong đất có nhiều xác bã động thực vật mà không có đủ lượng vi sinh vật (VSV) với  sự hoạt động phong phú và đa dạng của chúng thì đất cũng không thể nào phân giải được xác bã động thực vật để tạo ra hợp chất hữu cơ tạo độ phì cho đất, cung cấp  thúc ăn cho quần thể VSV trong đất và chất dinh dưỡng cho cây trồng  để phát triển tốt. Mặc khác, nhiều loại VSV còn là lực lượng bảo vệ cây trồng tránh những điều kiện bất thuận và sâu bệnh hại.

Vậy khi nói đến hữu cơ là phải nói đến làm sao để bảo vệ được sự hoạt động và đa dạng sinh học VSV trong đất. Vì vậy có thể nói VSV có vai trò quan trọng bảo vệ độ phì của đất và quản lý dịch hại cây trồng. Đất khỏe - Cây trồng khỏe - Môi trường khỏe và Con người khỏe.

Lưu ý: Bài viết có trích một số tư liệu của: GS.Nguyễn Thơ; PGS.Hồ Quang Đức; PGS.Trần Minh Tiến.