Phát huy vai trò động lực của kinh tế tư nhân Nghệ An trong giai đoạn hiện nay

14/02/2023 11:44

Kinh tế tư nhân (KTTN) ngày càng chiếm tỷ trọng lớn và có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế đất nước. Theo đó KTTN ngày càng phát triển mạnh về số lượng, chất lượng và quy mô.

Trong quá trình phát triển, thành phần KTTN vẫn còn gặp nhiều vướng mắc, hạn chế. Bài viết khái quát quá trình nhận thức và phát triển KTTN nói chung, KTTN tại Nghệ An nói riêng, nêu những trở ngại trong quá trình hoạt động của KTTN tại Nghệ An, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục khẳng định vai trò động lực quan trọng của KTTN tại Nghệ An theo tinh thần Đại hội lần thứ XIII của Đảng.

Trong nội dung bài viết, nhóm tác giả sẽ khái quát quá trình nhìn nhận của Đảng về vai trò của KTTN trong từng giai đoạn; khái quát một số nét về tình hình KTTN ở Nghệ An trong thời gian qua, từ đó đề xuất một số giải pháp để góp phần hỗ trợ KTTN ở Nghệ An phát triển và khẳng định vai trò của mình trong thời gian tới.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Tạo điều kiện để kinh tế tư nhân phát triển luôn là một trong những nội dung trọng tâm của các chương trình, chính sách của Đảng. Từ lâu, KTTN đã được coi là thành phần kinh tế năng động, giúp nhà nước và thị trường phân phối, sử dụng các nguồn lực một cách hiệu quả. Bên cạnh đó, KTTN đã góp phần phát triển lực lượng sản xuất, tạo việc làm, thu nhập cho người lao động, cùng hỗ trợ nhà nước thực hiện một số mục tiêu xã hội quan trọng. Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định vai trò của kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế, tạo niềm tin vững chắc cho kinh tế tư nhân phát triển ổn định, lâu dài trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới gắn với nhiệm vụ phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2026 và tầm nhìn 2030, 2045.

Trong bối cảnh dịch Covid đang dần được kiểm soát, nền kinh tế từng bước tiến vào trạng thái “bình thường mới”, cần phải có những hỗ trợ nào để các doanh nghiệp nói chung, trong đó có các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN khôi phục và phát triển trong giai đoạn sắp tới là những câu hỏi được Đảng, Nhà nước rất quan tâm.  

II. NỘI DUNG

2.1. Kinh tế tư nhân và quá trình nhận thức về vai trò Kinh tế tư nhân

Kinh tế tư nhân là một thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Cả hai thành phần kinh tế trên thuộc cùng chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất; tuy nhiên, quy mô sở hữu là khác nhau.

Quan điểm của Đảng về sở hữu và các thành phần kinh tế nói chung, về vị trí, vai trò của KTTN nói riêng có một quá trình, quan điểm này được bổ sung và hoàn thiện dần qua mỗi giai đoạn phát triển kinh tế đất nước. Cụ thể:

Tại Đại hội VI (12-1986), Đảng khẳng định “Cần sửa đổi, bổ sung và công bố rộng rãi chính sách nhất quán đối với các thành phần kinh tế... Xóa bỏ những thành kiến thiên lệch...”. Như vậy, các thành phần kinh tế phi XHCN được thừa nhận sự tồn tại và hoạt động dưới sự chỉ đạo, dẫn dắt của thành phần kinh tế XHCN. Tuy nhiên lúc này, KTTN nói riêng, các thành phần kinh tế phi XHCN nói chung vẫn được coi là đối tượng phải “cải tạo”, bằng những hình thức và bước đi thích hợp, tránh chủ quan nóng vội. Tại Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 5-4-1988, của Bộ Chính trị khóa VI, xác định hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, từ đó đổi mới cơ bản cách thức quản lý hợp tác xã nông nghiệp, tạo động lực cho KTTN trong nông nghiệp hồi phục và phát triển năng động, bước đầu chuyển sang sản xuất hàng hóa. Đây chính là bước khởi đầu quan trọng đối với KTTN nước ta, đặt cơ sở cho những bước đột phá tiếp sau.

Tiếp tục tư tưởng của Đại hội VI, tại Đại hội VII (6-1991) đưa ra quan điểm rõ ràng hơn về việc khuyến khích và tạo điều kiện cho KTTN phát triển. Văn kiện Đại hội VII khẳng định: “KTTN được phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất, theo sự quản lý, hướng dẫn của Nhà nước” và “Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp”. Đại hội VII cũng khẳng định: “Kinh tế tư bản tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành, nghề mà luật pháp không cấm”. Như vậy, Đại hội VII đã thực sự coi KTTN là một thành phần kinh tế độc lập, có tiềm năng phát triển và đóng góp cho sự phát triển kinh tế đất nước nói chung. Chính vì thế, Hội nghị Trung ương 2 khóa VII đã nêu chủ trương: “Bổ sung và sửa đổi thể chế nhằm bảo đảm cho tập thể, cá thể và tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những lĩnh vực mà pháp luật không cấm; được tự lựa chọn hình thức kinh doanh, kể cả liên doanh với nước ngoài theo những điều kiện do luật định”.

Đại hội VIII (6-1996) Đảng ta tiếp tục khẳng định “thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách này, khuyến khích mọi doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước khai thác các tiềm năng, ra sức đầu tư phát triển, yên tâm làm ăn lâu dài, hợp pháp, có lợi cho quốc kế dân sinh, đối xử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế trước pháp luật, không phân biệt sở hữu và hình thức tổ chức kinh doanh”. Như vậy, đến Đại hội VIII, KTTN đã được đối xử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế, đồng thời cần tạo điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân.

Bước phát triển mới trong quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò của KTTN thể hiện trong Văn kiện Đại hội IX (1-2001), khi Đảng ta khẳng định: “Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển không hạn chế về quy mô trong những ngành, nghề, lĩnh vực và địa bàn mà pháp luật không cấm”. Như vậy, đến Đại hội IX, quan điểm của Đảng ta đã có bước nhìn nhận mới: “Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động; liên doanh liên kết với nhau với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước”. Trong Nghị quyết Nghị quyết “Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích, tạo điều kiện phát triển KTTN” (Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, năm 2002), Đảng ta khẳng định: KTTN là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển KTTN là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN.

Đến Đại hội X (4-2006) của Đảng tiếp tục xác định vị trí và định hướng phát triển các thành phần kinh tế chủ yếu. Trong đó, bên cạnh vai trò chủ đạo của Kinh tế nhà nước, thì KTTN được coi là có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế, KTTN là bộ phận cấu thành không thể thiếu, có vị trí quan trọng đặc biệt và ý nghĩa chiến lược trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đồng thời, tạo điều kiện để KTTN phát triển mạnh mẽ hơn nữa. Đặc biệt, lần đầu tiên, vấn đề đảng viên làm KTTN được Đảng ta chính thức nêu ra và có quy định cụ thể. Hội nghị Trung ương 3 khóa X đã thảo luận và thông qua “Quy định đảng viên làm KTTN”.

Đại hội XI (1-2011) của Đảng tiếp tục xác định phải hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh KTTN trở thành một trong những động lực của nền kinh tế. Có thể thấy, quan niệm coi KTTN là “một trong những động lực của nền kinh tế” trong hai kỳ Đại hội X và XI phản ánh bước tiến mới trong tư duy của Đảng về vị trí, vai trò của KTTN trong nền kinh tế nước ta.

Đại hội XII (1-2016) Đảng tiếp tục khẳng định KTTN là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Văn kiện Đại hội XII nhấn mạnh việc: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh KTTN ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp. Khuyến khích hình thành các tập đoàn KTTN đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước”. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 4 khóa XII tiếp tục xác định rõ việc phát triển mạnh khu vực KTTN Việt Nam cả về số lượng, chất lượng, thực sự là một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế.

Cùng với quá trình nhận thức về vai trò của KTTN, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách mới, văn bản luật thể hiện tính nhất quán chủ trương của Đảng về KTTN là thành phần kinh tế có vai trò quan trọng, lâu dài trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định vai trò của KTTN là một động lực quan trọng của nền kinh tế, tạo niềm tin vững chắc cho KTTN phát triển ổn định, lâu dài trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới gắn với nhiệm vụ phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2026 và tầm nhìn 2030, 2045.

Có thể nói, với chủ trương nhất quán của Đảng, một mặt, củng cố niềm tin đối với KTTN. Thành quả phát triển KTTN được thực tiễn kiểm nghiệm dưới sự lãnh đạo của Đảng qua các kỳ đại hội cùng với đỉnh cao thắng lợi, phát triển toàn diện đất nước.

2.2. Một số nét về phát triển KTTN ở Nghệ An giai đoạn 2015 – 2020

Theo định hướng của Đảng và Nhà nước ta, những năm qua, Nghệ An đã ban hành những chính sách ưu đãi và hỗ trợ doanh nghiệp cũng như các nhà đầu tư trên địa bàn, từng bước tạo ra thế và lực trên con đường phát triển của mình. Để hỗ trợ KTTN, với tinh thần đồng hành cùng doanh nghiệp, tỉnh đặc biệt chú trọng đến việc tạo môi trường thuận lợi về thể chế chính sách, về khoa học công nghệ, về cải cách hành chính, về đào tạo nguồn nhân lực…  UBND tỉnh có Công văn số 6419 về việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 98/NQ-CP ngày 3/10/2017 của Chính phủ nhằm phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tỉnh cũng đã đẩy mạnh triển khai Chính phủ điện tử, đẩy mạnh cung cấp dịch vụ công trực tuyến, tuyên truyền, phổ biến cho các doanh nghiệp, đặc biệt là cơ chế tham gia ý kiến của các doanh nghiệp tư nhân đối với công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước, đảm bảo tính hiệu lực và hiệu quả đối với các chính sách hỗ trợ, phát triển doanh nghiệp; triển khai Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 35 của Chính phủ về Hỗ trợ và Phát triển doanh nghiệp đến năm 2020; những năm vừa qua, tỉnh Nghệ An luôn nỗ lực trong việc cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận với các dịch vụ công nói riêng, môi trường kinh doanh nói chung thuận lợi, chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh – PCI của tỉnh luôn được cải thiện trên bảng xếp hạng hàng năm, các chỉ số phụ như Chính sách hỗ doanh nghiệp, gia nhập thị trường, tính minh bạch luôn được cải thiện theo hướng tích cực.

Thời gian qua, khu vực KTTN ngày càng đóng góp lớn cho giá trị sản xuất của tỉnh, các hiệp hội và tổ chức kinh tế ở Nghệ An ngày càng thu hút nhiều doanh nghiệp tham gia. Số liệu thống kê cho thấy, trong bối cảnh khó khăn cùng với việc thực hiện nhiều chính sách về thuế nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, thu ngân sách 10 tháng năm 2020 ước thực hiện 13.077,71 tỉ đồng, đạt 85,9% dự toán, tăng 3,2% so với cùng kỳ. Trong 10 tháng năm 2020 (tính đến 15/10/2020), Nghệ An đã cấp mới giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho 1.324 doanh nghiệp, tăng 5,1% so với cùng kỳ; tổng số vốn đăng ký 10.953 tỉ đồng, bằng 95,89% cùng kỳ. Số doanh nghiệp hoạt động trở lại là 494 doanh nghiệp, tăng 2,07% so cùng kỳ năm 2019.

Có thể thấy, trên địa bàn tỉnh Nghệ An, vai trò quan trọng của KTTN ngày càng được khẳng định. Tuy nhiên, dù ngày càng phát triển nhưng không thể phủ nhận một thực tế, KTTN ở Tỉnh chủ yếu doanh nghiệp nhỏ và vừa, chủ yếu kinh doanh thương mại, sửa chữa nhỏ. Cùng với đó, trình độ công nghệ vẫn còn chậm đổi mới; năng suất lao động, tính liên kết không cao; khả năng tham gia chuỗi giá trị trong nước và quốc tế thấp… Đó không chỉ là thực trạng tại các KTTN trong tỉnh mà cũng là thực trạng chung của các doanh nghiệp thuộc KTTN của Việt Nam. Vì thế, việc tăng cường hỗ trợ, thúc đẩy doanh nghiệp tư nhân phát triển, không chỉ dựa vào năng lực của doanh nghiệp mà còn rất cần sự hỗ trợ, quan tâm của các cấp.

Trong đó, quan tâm đến việc tái cơ cấu doanh nghiệp khu vực tư nhân nhằm hạn chế tác động tiêu cực từ những bất ổn (đặc biệt là vấn đề dịch Covid-19 vừa qua) theo hướng đa dạng hóa về nguồn hàng, khách hàng và thị trường, nhất là đối với doanh nghiệp thuộc các ngành, lĩnh vực chịu tác động nặng nề của dịch bệnh như vận tải, du lịch, nông sản xuất khẩu và các doanh nghiệp công nghiệp chế tạo phụ thuộc nguồn nguyên, vật liệu từ nước ngoài.

Hiện số lượng doanh nghiệp tư nhân tại Nghệ An đang hoạt động khá cao, xấp xỉ 12.800 doanh nghiệp đăng ký thành lập, khoảng gần 10.000 doanh nghiệp đang đóng thuế nhưng tỷ lệ doanh nghiệp bình quân đầu người còn khiêm tốn. Làm thế nào để có thêm nhiều doanh nghiệp mới thành lập, bên cạnh thu hút được nhiều dự án nước ngoài là yêu cầu quan trọng đặt ra trong thời gian tới của Tỉnh Nghệ An.

2.3. Một số giải pháp để KTTN Nghệ An phát huy vai trò động lực trong giai đoạn hiện nay

* Nhóm giải pháp về phía tỉnh Nghệ An

- “Quan tâm” từng dự án sau cấp phép: Giải pháp quan trọng thời gian tới, tỉnh Nghệ An ngoài việc xúc tiến đầu tư rất hiệu quả còn phải chăm sóc nhà đầu tư, theo đúng khẩu hiệu “theo sát từng bước chân nhà đầu tư”. Cách này sẽ thể hiện được sự thay đổi tư duy từ "xin cho", "ban phát" sang "suy nghĩ và hành động". Việc quan tâm tới từng dự án sau cấp phép có vai trò hết sức quan trọng trong thu hút đầu tư, là cách hiệu quả để thu hút các doanh nghiệp làm ăn bài bản. Việc quảng bá hình ảnh, môi trường đầu tư sẽ trở nên thiết thực nhất khi lấy hiệu quả hỗ trợ, chăm sóc doanh nghiệp sau đầu tư làm thước đo về môi trường đầu tư.

- Xây dựng môi trường đầu tư hiệu quả, minh bạch, công bằng: Chính quyền tỉnh Nghệ An cần thực hiện “Rà soát và kiến nghị gỡ bỏ các rào cản, khó khăn mà nhà đầu tư gặp phải; đánh giá hiệu quả thực thi của các chính sách ban hành, kể cả đánh giá mức độ thực hiện của các sở, ngành có liên quan, thúc đẩy đối thoại giữa chính quyền với doanh nghiệp, tìm tòi các sáng kiến mới để cải thiện môi trường kinh doanh… chính là những hoạt động rất quan trọng và có ý nghĩa. Đích đến ở đây không chỉ là những dự án đầu tư với số vốn cụ thể, thành tích ngắn hạn mà là một môi trường đầu tư thuận lợi, an toàn, bền vững mà bất cứ nhà đầu tư nào dù trong tỉnh hay ngoài tỉnh, dù trong nước ngay nước ngoài, dù lớn hay bé đều được hưởng lợi. Đây chính là những hoạt động xúc tiến đầu tư hiệu quả và bền vững nhất” – Chủ tịch VCCI Vũ Tiến Lộc.

- Xây dựng hạ tầng công nghiệp hoàn thiện, hiện đại để thu hút các nhà đầu tư: hạ tầng cơ sở cho sản xuất kinh doanh luôn là mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư, đặc biệt là với các nhà đầu tư tư nhân. Nếu ban đầu họ được tiếp cận với cơ sở hạ tầng đảm bảo yêu cầu sản xuất sẽ là yếu tố rất thuận lợi để họ có thể tiến hành xúc tiến đầu tư. Tỉnh cần phải đánh giá lại tổng thể kết quả thực hiện chính sách hỗ trợ đầu tư cụm công nghiệp, xây dựng chính sách hỗ trợ đầu tư có trọng tâm, trọng điểm hơn; phát huy sự chủ động và giao trách nhiệm cho các địa phương góp vốn hỗ trợ cụm công nghiệp theo cơ chế chia theo tỉ lệ đóng góp; trong trường hợp các hạng mục cụm công nghiệp nào trọng tâm thì cần phải được ưu tiên vốn hoàn thành tránh hiện tượng dàn trải đều vốn cho các cụm công nghiệp, vừa không hiệu quả trong đầu tư, vừa lãng phí nguồn lực và cơ hội để thu hút đầu tư. Đồng thời, có các giải pháp khuyến khích thu hút nhà đầu tư tư nhân vào đầu tư kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp, như: phải giải tỏa, bàn giao mặt bằng sạch đúng hạn cho doanh nghiệp; chỉ đạo triển khai đồng bộ các hạng mục hạ tầng thiết yếu, có cơ chế để có đủ nước, điện, viễn thông cùng các dịch vụ thiết yếu… khi có nhà đầu tư đến triển khai dự án thì có ngay các dịch vụ cần thiết. Ngoài ra có thể thực hiện theo hình thức “Đổi đất lấy công trình” – tỉnh góp đất. doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư, xây dựng, hoặc tỉnh tài trợ để làm các hạ tầng đường, điện cho các doanh nghiệp trong khu công nghiệp sử dụng.

- Có chính sách về đào tạo, xây dựng nhân lực chất lượng cao, tạo nên nguồn lao động đủ về số lượng, chất lượng, đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp. Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XIX xác định: “Tiếp tục coi trọng đào tạo, phát triển và thu hút nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao” là một trong ba mũi đột phá chiến lược để phát triển. Để làm được điều này, Tỉnh cần bảo đảm nguồn lực tài chính,  đổi mới cơ chế, chính sách tài chính, khuyến khích các cơ sở giáo dục xây dựng phương án tự chủ tài chính; đồng thời, đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục và đào tạo và dạy nghề nhằm thực hiện một số các nội dung: hỗ trợ các cơ sở đào tạo xây dựng cơ sở hạ tầng hiện đại, đáp ứng yêu cầu dạy và học; có cơ chế khuyến khích các cơ sở đào tạo đa dạng hóa các hình thức hợp tác, liên kết đào tạo với trong và ngoài nước, liên kết với các doanh nghiệp, tập đoàn để nâng cao chất lượng dạy học, thực hành; đặc biệt khuyến khích ứng dụng khoa học – công nghệ trong giảng dạy và thực hành, khuyến khích tinh thần khởi nghiệp, đổi mới, sáng tạo cho học sinh, sinh viên; tiếp tục thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo và giáo dục nghề nghiệp; Phát triển các trường đại học, cao đẳng nghề đào tạo theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực, hội nhập quốc tế.

- Trước mắt, cần tiếp tục thực hiện các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp theo các Nghị định số 52/2021/NĐ-CP ngày 19/4/2021 về gia hạn thời hạn nộp thuế VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất năm 2021; Chỉ thị số 11/CT-TTg ngày 04/3/2020 về các nhiệm vụ, giải pháp cấp bách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất - kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội ứng phó với dịch Covid-19 và các chính sách khác, để các doanh nghiệp giảm bớt khó khăn về tài chính...

* Nhóm giải pháp về phía các doanh nghiệp tư nhân

- Xác định và lựa chọn đúng hướng đầu tư. Tỉnh Nghệ An đang có ưu tiên thu hút đầu tư phát triển các dự án công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp phụ trợ; đầu tư chiều sâu, hiện đại, nâng cao hiệu quả khai thác gắn với chế biến khoáng sản và bảo vệ tài nguyên môi trường; phát triển công nghiệp sản xuất và phân phối điện, nước theo hướng hiện đại. Vì vậy các nhà đầu tư nên có đánh giá khả năng, triển vọng của mình để có thể xâu dựng dự án đầu tư phù hợp. Trong thời gian vừa qua, tỉnh Nghệ An đã nổ lực rất lớn trong công tác xúc tiến đầu tư; tỉnh đã kịp thời rà soát, điều chỉnh, bổ sung các cơ chế, chính sách thu hút đầu tư, đổi mới phương thức tiếp cận, chỉ đạo quyết liệt để cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh theo hướng thông thoáng, tạo thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp, nhà đầu tư; triển khai thực hiện có hiệu quả nhiều giải pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các nhà đầu tư, vì vậy, nếu các nhà đầu tư thực sự có dự án phù hợp, có mong muốn đến với Nghệ An thì chắc chắn sẽ có được cơ hội để đầu tư và cùng phát triển với đất và người Nghệ An.

- Giữa các doanh nghiệp nên tạo sự liên kết, hợp tác chặt chẽ. Hiện nay, các doanh nghiệp nói chung, và doanh nghiệp khối tư nhân nói riêng ở Nghệ An đã có các hội, nhóm chung, tuy nhiên tính liên kết chưa cao. Sự chia sẻ và cùng hợp tác để sản xuất, kinh doanh, đón các cơ hội lớn gần như chưa có. Sở dĩ như vậy là chưa thực sự có được doanh nghiệp “đầu tàu” đủ mạnh để tạo ra sự liên kết, tạo nên tiếng nói chung để cùng hỗ trợ, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, năng lực cạnh tranh cho nhau. Vì vậy trong thời gian tới, bên cạnh sự hỗ trợ của chính quyền địa phương, các doanh nghiệp cần phải chủ động đưa nội dung hợp tác, liên kết với các doanh nghiệp khác vào kế hoạch hành động của mình, từ đó tạo thêm cơ hội phát triển cho chính mình, cũng như cho đối tác.

- Chủ động tìm kiếm các cơ hội để áp dụng, đổi mới khoa học – công nghệ vào quy trình sản xuất. Các doanh nghiệp đi đầu về công nghệ sẽ luôn có được những lợi thế rất lớn: chất lượng sản phẩm vượt trội, năng suất lao động tăng, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm, của doanh nghiệp trên thị trường. Đặc biệt trong xu thế khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, thời đại của kinh tế số, của tự động hóa sản xuất, trí thông minh nhân tạo, việc dẫn đầu về công nghệ sẽ là chìa khóa để giúp các doanh nghiệp phát triển và khẳng định vị thế của mình trên thị trường.

III. KẾT LUẬN

Thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân; đẩy mạnh khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo. Tiếp tục thoái vốn, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đảm bảo công khai, minh bạch và hiệu quả. Tập trung sắp xếp, đổi mới công ty nông, lâm nghiệp. Nâng cao hiệu quả hoạt động Liên minh hợp tác xã, các hội nghề nghiệp để tập hợp và hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã phát triển là chủ trương và mục tiêu lớn của Tỉnh Nghệ An trong những năm tới. Đây cũng chính là cơ hội để các nhà đầu tư tư nhân có thể tiếp cận và triển khai đầu tư sản xuất, kinh doanh.

Với những giải pháp đề xuất ở trên, hi vọng sẽ góp phần giúp cho kinh tế tư nhân Nghệ An sẽ có môi trường, điều kiện thuận lợi, sẽ phát huy được mội lực của mình để phát triển, ngày càng chứng minh được vai trò động lực trong phát triển kinh tế của tỉnh Nghệ An nói riêng, của cả nước nói chung.

Tài liệu tham khảo

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 10-NQ/TW Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về “Phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2021, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
  3. Đỗ Thanh Phương, Tạp chí Khoa học chính trị, số 07-2021, Tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân theo tinh thần Đại hội lần thứ 13 của Đảng
  4. HĐND tỉnh Nghệ An, số 17/2020/NQ-HĐND, Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2021;
  5. Nguyễn Công Nhâm, Sở Công Thương Nghệ An, Nghệ An tiềm năng và lợi thế để thu hút đầu tư

Website:

  1.             https://dangcongsan.vn/
  2.             https://pcivietnam.vn/ho-so-tinh/nghe-an
  3.             https://vbpl.vn/nghean/Pages/vbpq-toanvan.aspx?ItemID=147769
  4.             https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/trang-chu

 

ThS. Trần Thị Thanh Hường - ThS. Nguyễn Thị Ngọc Liên