Ngày 16 tháng 06 năm 2022 tại hội nghị lần thứ 5 BCH Trung ương Đảng khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 20-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới. Trong đó đã nêu rất rõ mục tiêu đến năm 2030 là: Cả nước có khoảng 140.000 tổ hợp tác, với 2 triệu thành viên; 45.000 hợp tác xã với 8 triệu thành viên; 340 liên hiệp hợp tác xã với 1.700 hợp tác xã thành viên và phải bảo đảm trên 60% tổ chức kinh tế tập thể đạt loại tốt, khá, trong đó có ít nhất 50% tham gia liên kết theo chuỗi giá trị. Có trên 5.000 hợp tác xã ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; phát triển các chuỗi giá trị nông sản hàng hóa gắn với liên kết sản xuất, cung cấp dịch vụ chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; đẩy mạnh tham gia vào các chuỗi cung ứng đưa sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu trực tiếp ra nước ngoài.
Nghị quyết là căn cứ quan trọng để thúc đẩy các loại hình tổ chức nông dân phát triển mà trọng tâm lấy tên gọi là THT, HTX. Từ đó mỗi tỉnh sẽ có các Nghị quyết riêng để thúc đẩy phát triển kinh tế tập thể và được cụ thể hóa thông qua các tổ chức nông dân.
Từ lâu tổ chức nông dân đã có vai trò quan trọng trong phát triển nông nghiệp, nông thôn. Tổ chức nông dân tạo môi trường thuận lợi giúp các thành viên tham gia trao đổi và chia sẻ thông tin, cùng xây dựng phương án, kế hoạch SXKD và cùng thực hiện các hoạt động tập thể một cách hiệu quả. Để phát triển một chuỗi giá trị thành công, cần có 2 liên kết chính là liên kết dọc và ngang. Tổ chức nông dân sẽ tạo nên các mối liên kết ngang, giúp kết nối các hộ sản xuất liên kết lại với nhau, từ đó liên kết với các tác nhân trong và ngoài tổ chức để cùng phát triển bền vững.
Xây dựng mối liên kết ngang luôn gặp nhiều khó khăn và thách thức, do nhiều lý do, cụ thể: do trình độ nhận thức của người nông dân khác nhau, sản phẩm đa dạng, vùng sản xuất nhỏ lẻ manh mún, cơ sở hạ tầng yếu kém, kỹ thuật và công nghệ trong các khâu từ sản xuất, sơ chế, chế biến, bảo quản, bao bì, nhãn mác, xây dựng thương hiệu, quảng bá sản phẩm và đặc biệt là việc áp dụng các tiêu chuẩn vào sản xuất, sơ chế, chế biến còn nhiều hạn chế. Bởi vậy, việc hỗ trợ các loại hình Tổ chức nông dân tham gia vào chuỗi giá trị, thị trường và sản xuất theo các tiêu chuẩn chất lượng là cần thiết, cần sự hợp sức, nỗ lực của các ngành các cấp.
Trong gần 20 năm qua Tổ chức IFAD đã hỗ trợ cho 11 tỉnh tại Việt Nam (Cao Bằng, Bắc Cạn, Hà Giang, Tuyên Quang, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Ninh Thuận, Đắk Nông, Gia Lai, Trà Vinh và Bến Tre) các dự án về nông nghiệp và giảm nghèo. Các hỗ trợ cụ thể là: nâng cao năng lực cho cán bộ, nông dân hạt nhân, hỗ trợ hình thành tại mỗi tỉnh trên 1000 các tổ, nhóm, HTX; hỗ trợ kinh phí để các tổ nhóm, HTX xây dựng phương án SXKD, tiểu dự án với ngân sách giao động từ 100-200 triệu/tổ nhóm; hỗ trợ các TCND kết nối thị trường, xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu, truy xuất nguồn gốc, nâng cao chất lượng ATVSTP. Mỗi dự án còn tổng hợp và tài liệu hóa các bài học kinh nghiệm thành công và phổ biến nhân rộng ra toàn tỉnh. Bên cạnh IFAD các tổ chức khác như ADB, World Bank, Tầm nhìn thế giới, Kopia Hàn Quốc… cũng đã hỗ trợ các tỉnh trong cả nước hình thành nhiều loại hình tổ chức nông dân với nhiều cách làm và có các mô hình hiệu quả.
Trong các hình thức liên kết ngang trên, thì HTX là hình thức hợp tác yêu cầu cao về mặt thủ tục pháp lý, là đơn vị có tư cách pháp nhân, tự chịu trách nhiệm về nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích lỹ và các nguồn vốn khác của HTX.
Quá trình thành lập nên các THT/HTX đều có thể qua các bước sau:
Các bước thành lập một tổ chức nông dân |
Kết quả/sản phẩm |
Bước 1. Xác định địa điểm, tuyên truyền về lợi ích về tổ chức nông dân và lựa chọn Ban sáng lập
|
|
Bước 2. Xây dựng dự thảo Qui chế/điều lệ và Phương án SXKD của tổ chức
|
|
Bước 3. Thông qua Quy chế/điều lệ và phương án SXKD |
|
Bước 4. Tổ chức lễ ra mắt hay đại hội lần thứ nhất (với HTX)
|
|
Bước 5. Lập kế hoạch sản xuất kinh doanh cho tổ chức nông dân |
|
Bước 6. Theo dõi hỗ trợ thực hiện, kế hoạch, tổng kết và lập kế hoạch mới |
|
Nguồn: Trung tâm NC và PT Hệ thống nông nghiệp
Tổ chức nông dân trực tiếp tham gia phát triển các vùng nguyên liệu đạt chuẩn, không những tạo được độ đồng đều về chất lượng, đảm bảo về số lượng mà còn cùng nhau giám sát để đảm bảo có được sản phẩm có độ an toàn cao nhất để tham gia và chiếm lĩnh thị trường trong nước cũng như xuất khẩu. Các tiêu chuẩn GAP và quy chuẩn để sản xuất sản phẩm an toàn đều được các TCND áp dụng.
GAP là viết tắt của Good Agricultural Practices, nghĩa là quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt. Là những phương pháp cụ thể được áp dụng vào sản xuất nông nghiệp, sản xuất thực phẩm cho người tiêu dùng hoặc chế biến an toàn và hợp vệ sinh.
Tiêu chuẩn GAP bao gồm việc sản xuất theo hướng lựa chọn địa điểm, việc sử dụng đất đai, phân bón, nước, phòng trừ sâu bệnh hại, thu hoạch, đóng gói, tồn trữ, vệ sinh đồng ruộng và vận chuyển sản phẩm… Nhằm phát triển nền nông nghiệp bền vững với mục đích đảm bảo an toàn cho thực phẩm, người sản xuất, môi trường và truy nguyên được nguồn gốc sản phẩm.
Trong thời gian đầu khi mới thành lập các TCND thường gặp khó khăn trong việc cùng nhau áp dụng các tiêu chuẩn GAP, tuy nhiên khi có đặt hàng cụ thể từ các doanh nghiệp, siêu thị, cửa hàng thì họ sẽ cùng nhau áp dụng, do vậy việc hình thành liên kết dọc thông qua các loại hình hợp đồng là cần thiết cho các TCND.
Mức độ liên kết và các hình thức liên kết được thể hiện thông qua các hợp đồng liên kết trong chuỗi giá trị nông sản thường có các hình thức liên kết và mức độ rằng buộc trong các liên kết như sau:
Thị trường mua, bán tự do |
Hợp đồng mua sản phẩm (bao tiêu đầu ra) |
Liên kết chiến lược giữa các tác nhân |
Hợp tác chính thức (Hợp đồng sản xuất và bao tiêu sản phẩm) |
Hợp đồng theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp (gia công) cho doanh nghiệp |
Điều phố (thị trường tự do) |
Điều phối bởi mức độ phối hợp quản lí giữa các đối tác tham gia hợp đồng
|
|||
Kiểm soát từ bên ngoài bằng giá cả và các tiêu chuẩn chung |
Kiểm soát từ bên ngoài bằng các điều khoản hợp đồng và quy phạm pháp luật |
Kiểm soát lẫn nhau giữa các đối tác tham gia |
Kiểm soát nội bộ bởi cấu trúc có sự phân cấp giữa các bên tham gia |
Kiểm soát nội bộ bởi cấu trúc tập trung (chủ yếu do doanh nghiệp) |
Trên đồ thị, tính từ trái sang phải, nội dung ràng buộc trong các loại hình hợp đồng nông sản tăng dần từ hợp đồng đơn thuần là bao tiêu đầu ra đến hợp đồng sản xuất theo đơn đặt hàng với các tiêu chuẩn và yêu cầu rất chi tiết từ phía doanh nghiệp, lâu nay vẫn gọi là hợp đồng gia công cho doanh nghiệp, thứ tự tăng dần theo các nội dung giàng buộc kiểm soát lẫn nhau là:
- Hợp đồng bao tiêu sản phẩm đầu ra
- Hợp đồng chiến lược giữa các bên (xác định trên nguyên tắc kiểm soát lẫn nhau)
- Hợp đồng sản xuất và bao tiêu sản phẩm
- Hợp đồng gia công/hợp đồng theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp
Khi một vùng sản xuất mà có được liên kết dọc và ngang thì việc hình thành nên chuỗi giá trị sẽ thuận lợi. Khi chúng ta hướng tới một nền sản xuất nông nghiệp sinh thái, kinh tế nông nghiệp tuần hoàn, thuận tự nhiên rất cần hình thành nên các loại hình TCND và rất cần thiết để có các chính sách hỗ trợ phát triển kịp thời, đồng thời cũng phải có phương pháp, có con người để thực hiện nhiệm vụ này. Khi thực hiện được các mối liên kết thì các bên đều có lợi:
- Người sản xuất tham gia vào các TCND: Tránh khỏi tình cảnh bị thương lái ép giá và hiện tượng được mùa mất giá. Khi gặp rủi ro được doanh nghiệp, nhà nước hỗ trợ một phần. Do đó, ổn định về sản xuất, tăng trưởng một cách bền vững và yên tâm đầu tư cho sản xuất nông nghiệp.
- TCND: Được hưởng lợi từ hợp đồng liên kết, các chính sách ưu đãi của nhà nước, nhận được sự quan tâm đầu tư của các dự án trong và ngoài nước trong việc đầu tư cơ sở hạ tầng cho TCND phát triển các dịch vụ liên quan.
- Đối với doanh nghiệp: Có vùng nguyên liệu ổn định, an tâm về chất lượng nguồn nguyên liệu đầu vào. Bên cạnh đó, mối liên kết với người sản xuất cũng giúp doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư công nghệ, giúp tháo gỡ khó khăn của người nông dân trong các khâu sơ chế, bảo quản...
Tuy nhiên, qua quá trình nghiên cứu và tư vấn phát triển TCND, chúng tôi nhận thấy để các TCND hoạt động có hiệu quả trong thời kỳ đổi mới, hội nhập rất cần quan tâm hỗ trợ các điểm sau:
- Thứ nhất cần có một đội ngũ mạng lưới cán bộ nông nghiệp tại các thôn bản, xã, huyện đủ mạnh: chất lượng và cả số lượng để thực hiện nhiệm vụ này và cần được đào tạo về Tổ chức nông dân. Khuyến nông viên cộng đồng là một giải pháp phù hợp và cần được hình thành và trang bị kiến thức về TCND, thị trường…
- Thứ hai cần nâng cao năng lực về Tổ chức, quản lý, xây dựng và triển khai kế hoạch/phương án SXKD cho nông dân hạt nhân, cụ thể là Tổ trưởng, chủ tịch HĐQT/BGĐ và kế toán của HTX. Về cách làm nên kết hợp giữa tập huấn, hướng dẫn với tham quan học tập (dùng nông dân dạy nông dân) và có chuyên gia tư vấn hỗ trợ THT/HTX trong một khoảng thời gian từ 6-12 tháng.
- Thứ ba cần hỗ trợ các TCND hạ tầng, công nghệ trong phát triển sản phẩm theo chuỗi giá trị. Việc hỗ trợ đã có quy định cụ thể trong các chính sách của nhà nước. Tuy nhiên cách triển khai thì phải linh hoạt và đảm bảo tạo ra sản phẩm theo đúng yêu cầu của thị trường/khách hàng và giảm được chi phí cấu thành giá thành sản phẩm, tăng tính cạnh tranh. Việc đầu tư cần phải được minh bạch và tính toán các chỉ số kinh tế như NPV và IRR. Đảm bảo mức đóng góp của các TCND trên 50% trong các hạng mục này. Ví dụ cách làm hay trong các tỉnh mà IFAD hay ADB tài trợ, họ không hỗ trợ tiền mặt, không hỗ trợ công trình đã xây sẵn mà chỉ hỗ trợ vật liệu (xi măng, sắt, sỏi…) và để trực tiếp các TCND tự xây dựng, đã mang lại hiệu quả rõ rệt. Các công nghệ cần hỗ trợ trong khâu sản xuất, thu hoạch, sơ chế, chế biến, bảo quản… nên được hỗ trợ nhưng phải dựa trên kết quả việc phân tích chuỗi giá trị và đánh giá tính hiệu quả của việc đầu tư, tránh tình trạng đầu tư máy móc thiết bị rồi bỏ không, không sử dụng như nhiều chương trình, dự án đã gặp phải.
- Thứ tư cần đầu tư xây dựng thương hiệu, kết nối thị trường và sản xuất theo tiêu chuẩn chất lượng, cụ thể:
- Hỗ trợ địa phương lựa chọn loại hình và xây dựng nhãn hiệu, thương hiệu cho sản phẩm của TCND từ nguồn kinh phí khoa học hàng năm: Chỉ dẫn địa lý, Nhãn hiệu chứng nhận, nhãn hiệu tập thể… Ví dụ: Hải Dương đã làm gạo nếp Kinh môn; Hải Phòng làm về na bở Liên khê, thuốc lào Tiên Lãng, Vĩnh Bảo; Chả cá chày…; Quảng Ninh làm nhiều chương trình về Sở hữu trí tuệ hiệu quả và có nhiều sản phẩm nổi tiếng như Gà Tiên Yên; miến dong Bình liêu; Chả mực Hạ Long; nếp cái Đông Triều; …
- Hỗ trợ các THT/HTX xây dựng được hệ thống truyền thông tích hợp nhiều kênh cung cấp và minh bạch thông tin với khách hàng và cộng đồng: Kết hợp giữa phương pháp truyền thống như tham gia hội chợ, quảng bá trên truyền hình, trên báo, đài và đặc biệt là khai thác các kênh truyền thông online hiện nay qua mạng xã hội. Nhưng cần đào tạo và lựa chọn được người trong các TCND hiểu biết về công nghệ và quản trị được thông tin khi quảng bá
- Hỗ trợ cấp mã vùng trồng, truy xuất nguồn gốc cho sản phẩm của TCND
- Hỗ trợ tham gia vào chương trình OCOP quốc gia
- Hỗ trợ việc nghiên cứu phân tích thị trường và lựa chọn các kênh tiêu thụ cho các THT/HTX. Việc này cần có các chuyên gia, tư vấn hỗ trợ từ dịch vụ công hay các đề tài, dự án
- Hỗ trợ việc phân tích chất lượng sản phẩm, hoàn thiện hồ sơ đăng ký theo từng tiêu chuẩn mà HTX/THT sản xuất theo đặt hàng của khách hàng hoặc theo xu thế của thị trường hay các kênh mục tiêu mà TCND hướng tới: Hữu cơ; VietGAP; VietGAHP; Các loại GAP khác do các tổ chức Quốc tế quy định đang được triển khai tại Việt Nam gồm GlobalGAP, 4C, UTZ Certified, Rain Forest cho các sản phẩm xuất khẩu chủ lực như chè, cà phê, ca cao, hồ tiêu,
- Thứ 5 cần tiếp tục có chính sách miễn giảm thuế cho các sản phẩm nông sản của HTX khi tham gia vào thị trường, đặc biệt là xuất khẩu.
TS. Hoàng Xuân Trường
Trung tâm Nghiên cứu & Phát triển Hệ thống Nông nghiệp
ĐT: 0985525527
Email: hoangxuantruongvn@gmail.com