Chuyện bây giờ mới kể về thương binh - Nhà giáo Nguyễn Thuỳ và 2 cuốn sổ tay Nhật ký

Đầu tháng 8 năm 2025, trong khuôn khổ sự kiện giới thiệu cuốn sách “Ngôi nhà xưa yêu dấu”, Tổ chức “Trái tim người lính” đã tiếp nhận 2 cuốn sổ tay nhật ký thời chiến của Thương binh, Nhà giáo Nguyễn Thùy. Đó là 2 cuốn nhật ký chiến trường mang tên “Ghi vội trên mâm pháo”, với những trang viết sinh động, chân thực và kiêu hùng của thế hệ chiến sĩ phòng không đầu tiên trong kháng chiến chống Mỹ.
dt1a-hung1-1762832274.jpg
 

Nguyễn Thùy sinh ngày 22/8/1944 tại thôn Chu Xá, xã Quang Châu, tỉnh Bắc Ninh (thuộc huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang cũ); trong một gia đình công nông nghiệp. Cụ Nguyễn Hữu Thuyết, cha của Nguyên Thùy, vừa là một công nhân, một người thợ bách nghệ tài hoa, vừa là một nông dân thực thụ.

Trong kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Thùy theo gia đình tản cư lên vùng Yên Thế - Nơi người thủ lĩnh áo nâu Hoàng Hoa Thám và những người nông dân đã anh dũng nổi dậy, khởi nghĩa chống kẻ thù xâm lược gần 30 năm. Hòa bình lập lại, gia đình hồi hương, Nguyên Thùy đã theo học cấp 1, cấp 2 và cấp 3 tại Trường Hàn Thuyên nổi tiếng ở Bắc Ninh.

dt1a-hung2-1762832641.jpg
 

Nguyễn Thùy đã làm những bài thơ đầu tiên từ năm 1963 và viết những dòng nhật ký đầu tiên từ ngày 8/3/1965. Sổ tay nhật ký khép lại vào ngày 22/8/1968. Tuy nhiên, trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi chỉ giới thiệu đôi nét về tiểu sử tác giả và những chuyện liên quan tới gia đình, chưa có trong phần nhật ký.

Nguyễn Thùy và Phạm Tiến Duật từng ở cùng một Đại đội và hai người rất giống nhau, tới mức nhiều người nhầm lẫn!

Năm 1963, ngay sau khi Nguyễn Thùy học hết phổ thông hệ 10 năm, miền Bắc đang chuẩn bị lực lượng để sẵn sàng chống chiến tranh phá hoại của Không quân Mỹ, anh đã cùng bạn bè đồng trang lứa xung phong nhập ngũ, trở thành bộ đội Cao xạ pháo, bảo vệ vùng trời Tây Bắc và vùng thượng Lào.

dt3hung3b-1762832732.jpg
 

Thật thú vị, khi cuối năm 1964, Nguyễn Thùy đựợc biên chế cùng Đại đội 3, Tiểu đoàn 24 pháo cao xạ 37 ly với Phạm Tiến Duật (1944 – 2007) khoảng một năm. Trận địa của họ đóng trên một đỉnh đồi, giữa thị xã Sơn La. Thời ấy, Sơn La được coi như thủ phủ của Tây Bắc. Rất ít người biết Nhà thơ nổi tiếng của tương lai, sau khi tốt nghiệp Đại học Sư phạm, xung phong nhập ngũ, huấn luyện tân binh xong đã được biên chế làm lính Cao xạ bảo vệ vùng trời Tây Bắc. Tại đây, Phạm Tiến Duật đã làm những bài thơ đầu tiên về lính và viết những bài báo đầu tiên về bộ đội Phòng không, trước khi được điều vào Đoàn 559 và trở thành một “Tượng đài thi ca” của Trường Sơn.

Nguyễn Thùy nhớ rằng hồi đó, dù là đơn vị pháo cao xạ, liên quan đến vũ khi trang bị kỹ thuật, đòi hỏi chiến sĩ phải có trình độ văn hóa nhất định mới tiếp thu được, bộ đội được tuyển chọn, nhưng chiến sĩ trong đơn vị lại có văn hóa không đồng đều, nhiều người mới chỉ biết đọc và biết viết. Chỉ có 3 người đã học hết cấp 3 phổ thông. Trong Đại đội nổi nhất là Phạm Tiến Duật đã tốt nghiệp Đại học và Nguyễn Thùy giỏi về kỹ thuật và tính toán. Đặc biệt, do hai người có khuôn mặt và sống mũi cao giống nhau, nên rất nhiều người nhầm lẫn Phạm Tiến Duật – Nguyễn Thùy. Thậm chí, cuối thập niên 90, trong một sự kiện do tỉnh Sơn La tổ chức kỷ niệm trận đầu đánh thắng máy bay Mỹ trên vùng trời Tây Bắc, họ mời các cựu chiến binh về dự. Khi Nguyễn Thùy xuất hiện, nhiều người đã ồ lên và gọi tên… Phạm Tiến Duật!

dt4ahung4v-1762832848.jpg

Những ảnh minh hoạ bài viết do tác giả cung cấp.

 

Trong suốt 5 năm đội nắng, dầm mưa trên mâm pháo, Nguyễn Thùy là pháo thủ Số 2 (quay tầm) đã cùng đồng đội trực tiếp đối mặt, dũng cảm chiến đấu hàng trăm trận đánh với máy bay Mỹ. Lửa khói và bom đạn đã tôi luyện nên những người như Nguyễn Thùy. Và tất cả những điều đó, may mắn đã được Nguyên Thùy ghi chép trong hai cuốn sổ tay nhật ký “Ghi vội trên mâm pháo”. Anh coi đây là “Những năm tháng đẹp nhất cuộc đời” mình…

Trong trận đánh ác liệt tại Mường Ngà (nay thuộc thị xã Sầm Nưa, tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào) ngày 31/10/1967, máy bay địch đã đánh trúng trận địa, bộ đội ta hi sinh rất nhiều. Trung đội phó Nguyễn Thùy đứng dưới công sự đã nhảy lên mâm pháo, để thay thế một pháo thủ ở vị trí cao nhất. Một quả bom bi đã nổ ngay trên đầu anh. Mảnh bom găm khắp người. Vết thương nặng nhất là tại ngực phải, một viên bi làm gãy một xương sườn và xuyên qua phổi ra sau lưng.

Đặc biệt là chiếc mũ sắt đội đầu Nguyễn Thùy đã méo mó và thủng mấy lỗ. Khiến cho anh gục xuống, với khuôn mặt đầy máu tươi. Trận đó, 20 cán bộ chiến sĩ trong Đại đội đã hi sinh tại chỗ. Khi đồng đội khiêng thi thể thứ 21 lên cáng để chuẩn bị đưa đi truy điệu và mai táng, thì phát hiện ra “cái xác” ấy còn thở thoi thóp. Đó chính là Nguyễn Thùy.

Sau này, theo sự hồi tưởng và viết lại trong những trang nhật ký tháng 11 năm 1967, từ những dòng lưu bút của bạn bè cùng đơn vị khi vào thăm Nguyễn Thùy tại Viện 951 trên đất Lào cho biết: anh đã hôn mê suốt một tuần mới tỉnh và phải nằm tại đây cả tháng trời cho ổn định vết thương, trước khi được chuyển về nước để phẫu thuật lại và điều trị tại Viện Quân y 5. Ngày 31/12/1967, nghĩa là tròn 2 tháng kể từ ngày bị thương, Nguyễn Thùy mới được xuất viện, nhờ sức trẻ và nghị lực phi thường. Trở về đơn vị cũ được ít ngày, anh được thủ trưởng cho nghỉ phép về thăm nhà và sau đó là đi an dưỡng tại Quế Võ, của tỉnh Hà Bắc (cũ).

Từ một Thương binh là Sinh viên đến "Thủ lĩnh thanh niên" của Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội...

Giữa tháng 7/1968, vì không đủ sức khỏe trở lại đơn vị, Nguyễn Thùy nhận quyết định xuất ngũ về đi học tại khoa Toán Lý, Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội. Mất cả tháng trời, người thương binh trẻ mới quen được sự hụt hẫng, trống vắng vì nhớ đồng đội và đơn vị cũ, bắt đầu một chặng đường mới cho cuộc đời mình.

Nhưng năm đó, do Nguyễn Thùy nhập học muộn, nên đã phải về cơ sở của Trường Bách Khoa tại Hưng Yên học dự bị một năm. Trong cái rủi, lại có cái may, nhờ đó mà anh đã được học cùng nữ sinh viên Nguyễn Thị Cúc, một cô gái xinh đẹp, quê tại Thái Bình (cũ). Sau này, cô nữ sinh đã trở thành người vợ đảm đang và thương yêu chồng con hết mực của Nguyễn Thùy.

Năm đó, 40 sinh viên đã trúng tuyển vào Khóa 14 (1969 - 1974) Khoa Toán Lý của Trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Nhập học chẳng bao lâu, thì năm 1972, do nhu cầu của chiến trường miền Nam, các sinh viên đã lần lượt nhập ngũ và lên đường đi chiến đấu. Lớp Vật Lý của khoa Toán Lý chỉ còn lại 14 sinh viên, đó là các Thương binh, cán bộ cơ quan cử đi học, con liệt sĩ, hoặc nữ. Họ được chia làm 2 lớp Vật lý Hạt nhân và Vật lý Chất rắn, mỗi lớp 7 người. Anh Thùy và chị Cúc cùng học chuyên ngành Vật lý Chất rắn. Chủ nhiệm bộ môn là thầy Vũ Đình Cự (1936 – 2011) nổi tiếng tài giỏi và tận tụy với học trò. (Sau này, ông là đại biểu Quốc hội khóa VII, VIII, IX, X; Ủy viên Thường vụ Quốc hội khóa IX, X; Phó Chủ tịch Quốc hội khóa X; Ủy viên Trung ương Đảng khóa VII, VIII; Chủ tịch Ủy ban Hòa bình Việt Nam…).

Trong lớp Vật lý Chất rắn có Nguyễn Thùy và một người nữa là Thương binh và 3 người là con của Liệt sĩ. Chị Nguyễn Thị Cúc sinh ra trong một gia đình có truyền thống Cách mạng: Ông nội là trưởng họ, từng bị Pháp bắt và tù đày tại Hải Phòng; cha là Liệt sĩ Nguyễn Quang Trung, đã hi sinh năm 1952 trong kháng chiến chống Pháp. Khi còn đang học cấp 3, Công an tỉnh Thái Bình (cũ) đã có ý định tuyển dụng chị Cúc vào ngành để cử sang Cộng hòa Dân chủ Đức đào tạo Công an mật, nhưng gia đình không đồng ý. Trong số bạn bè đồng môn với chị Nguyễn Thị Cúc hồi ấy, có nhiều người học rất giỏi và sau này đã thành danh. Điển hình là Thiếu tướng, GS.TS Bùi Quảng Bạ (nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh; Tổng Biên tập Tạp chí Chiến lược và Khoa học; Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Công nghệ của Tổng cục An ninh I; Viện trưởng Viện Chiến lược và Khoa học Công an).

Xuất thân từ một gia đình Cách mạng, có cha là Liệt sĩ, nên chị Nguyễn Thị Cúc có cảm tình với anh Thương binh Nguyễn Thùy, ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên. Năm 1972, khi Trường Bách khoa sơ tán về Hiệp Hòa, thuộc tỉnh Hà Bắc (cũ) thì họ bắt đầu yêu nhau. Khóa học kéo dài 5 năm 6 tháng, vì có thời gian sinh viên phải đi khắc phục hậu quả lũ lụt tại Cống Thôn. Ngày 30/12/1974, ngay sau khi tốt nghiệp, đám cưới của anh Thùy và chị Cúc được tổ chức tại Việt Yên, tỉnh Bắc Giang, với nghi thức rất đơn giản và tiết kiệm vì đang trong thời chiến và kinh tế bao cấp khó khăn.

Hạnh phúc chưa được bao lâu, do yêu cầu công tác, đôi vợ chồng trẻ đã phải xa nhau: Kỹ sư Nguyễn Thị Cúc được điều về Viện Kỹ thuật Giao thông (nay là Viện Khoa học Giao thông) và sau đó làm việc liên tục 9 năm tại đây. Còn Kỹ sư Nguyễn Thùy được giữ lại Trường Bách khoa làm giảng viên bộ môn Vật lý đại cương, kiêm Phó Bí thư Đoàn trường. Với tinh thần nhiệt huyết của một người lính, Phó Bí thư Nguyễn Thùy đã “tiếp lửa” cho các sinh viên, đưa phong trào Đoàn của Trường Đại học Bách Khoa lên một tầm cao mới. Họ trực tiếp, hăng hái tham gia lao động ở rất nhiều các công trình công cộng và hoạt động cộng đồng sôi nổi. Sinh viên Bách khoa hồi ấy, do Phó Bí thư Đoàn trường Nguyễn Thùy dẫn đầu, đã tham gia đào đắp các công trình: Đường Thanh niên, sông Lừ, sông Sét, hồ Bẩy Mẫu, hồ Thành Công, hồ Thủ Lệ…

Nhưng cũng chính thời gian này, do lao động làm việc quá sức, vết thương cũ đã tái phát, viên bi còn trong sọ não bắt đầu hành hạ Nguyễn Thùy. Anh thường xuyên bị động kinh, lăn quay ra đường bất tỉnh. Có những lần Nguyễn Thùy được những người đi đường tốt bụng đưa vào đồn Công an, chị Cúc đến đón đưa xích lô về tới nhà vẫn còn chưa biết gì. Lãnh đạo Trường Đại học Bách khoa họp bàn, thống nhất đề nghị với Viện Kỹ thuật Giao thông, xin cho chị Nguyễn Thị Cúc về công tác tại Trường Bách Khoa. Phó hiệu trưởng Lê Hoàng Việt đã ký quyết định tiếp nhận Kỹ sư Nguyễn Thị Cúc về làm Giảng viên Thực nghiệm, để tiện chăm sóc sức khỏe cho chồng…

Năm 1982, Nguyễn Thùy được bổ nhiệm làm Phó phòng Quản lý Sinh viên Trường Đại học Bách khoa. Đây là cơ quan mới thành lập, được tách ra từ Phòng Tổ chức Cán bộ. Cùng với đồng sự Lê Ngọc Hiển, Nguyễn Thùy đã giúp lãnh đạo Nhà trường giải quyết rất nhiều vụ việc cụ thể, liên quan đến mọi mặt đời sống và học tập của sinh viên Bách Khoa hồi đó. Phòng Quản lý Sinh viên rất có uy tín với Đảng ủy và nhiều thế hệ Lãnh đạo Nhà trường...

(Đón đọc kỳ sau: "Cuộc đấu sinh tử tại Viện Quân y 108 và một gia đình hạnh phúc có 8 người đều là Kỹ sư Bách Khoa").

Hà Nội, 11/11/2025

TTNL