Ngày 22/12/2024, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về Đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Đây là một động lực rất lớn đối với các nhà khoa học, các nhà làm công tác phát triển thành viên của Hội khoa học phát triển nông thôn (PHANO). Nhân dịp năm mới Ất Tỵ, PHANO có một số suy nghĩ về vấn đề tiếp cận và trao đổi kiến thức nhằm thúc đẩy quá trình chuyển đổi Hệ thống Lương thực thực phẩm, minh bạch, có trách nhiệm và bền vững đến năm 2030 theo Quyết định 300 ngày 28/3/2023 của Chính phủ.
Tiếp cận chuyển đổi hệ thống Lương thực thực phẩm
Trong quá trình thực hiện Kế hoạch hành động chuyển đổi Hệ thống Lương thực thực phẩm (LTTP) ở Việt nam hiện nay có hai tiếp cận đang được triển khai song song, có tính bổ trợ cho nhau vì vậy cần xem xét tích hợp hai tiếp cận thành một tiếp cận tổng hợp: Chuyển đổi nông nghiệp sinh thái (NNST) và Chế độ ăn lành mạnh bền vững nhằm thực hiện chuyển đổi Hệ thống LTTP đạt được các mục tiêu An ninh lương thực và Dinh dưỡng, kinh tế xã hội và môi trường. Vậy hai tiếp cận này có mối quan hệ ra sao?
Hệ thống sinh thái nông nghiệp luôn phụ thuộc vào kiến thức của từng địa phương cụ thể. Hệ thống sẽ không cung cấp những quy trình cố định, thay vào đó, các hoạt động thực tiễn sinh thái nông nghiệp nên thích nghi với môi trường, xã hội, kinh tế, văn hoá và chính trị. NNST cần phải nhấn mạnh các giá trị con người và xã hội, liên quan đến giới tính và bình đẳng xã hội, cũng như việc tiếp cận việc làm tốt hơn, tất cả đều góp phần cải thiện chiều hướng của các mục tiêu phát triển bền vững. Từ việc xây dựng quyền tự chủ và thích nghi trong việc quản lý các hệ thống nông nghiệp và thực phẩm, hệ thống NNST có thể tăng cường khả năng của con người và cộng đồng để vượt qua nạn đói nghèo và suy dinh dưỡng. Là mô hình từ dứơi lên để phát triển nông thôn bền vững, NNST có thể trao quyền cho con người để trở thành tác nhân thay đổi của chính họ. Bên cạnh đó ngành nông nghiệp và thực phẩm được coi là một phần cốt lõi của di sản nhân loại. Văn hoá và truyền thống ẩm thực là kết quả của sự tương tác lâu dài giữa con người và môi trường, đóng vai trò quan trọng trong xã hội và định hình hành vi của con người, là nền tảng của quá trình chuyển đổi hệ thống sinh thái nông nghiệp. Tuy nhiên, hầu hết phụ nữ nông thôn là những người am hiểu rõ kiến thức quan trọng về sản xuất, chế biến và cung cấp lương thực, đóng vai trò quan trọng đối với an ninh lương thực và dinh dưỡng, họ thường không có quyền tiếp cận đến các lĩnh vực về tài nguyên thiên nhiên và đất đai. Sự khác biệt này đã dẫn đến sự mất kết nối giữa thói quen ăn uống và văn hoá của hệ thống thực phẩm, dẫn đến sự xuất hiện của các hệ thống lương thực cùng tồn tại với nạn đói và bệnh béo phì, và các nguồn tài nguyên di truyền của thực phẩm và nông nghiệp cũng sẽ bị đe doạ. Bằng cách trao quyền cho phụ nữ và hỗ trợ chế độ ăn uống đa dạng, NNST có thể thúc đẩy an ninh lương thực thực phẩm và đảm bảo dinh dưỡng trong khi duy trì sức khoẻ của hệ sinh thái cũng như sự đa dạng trong hệ thống sản xuất nông nghiệp. Việc thúc đẩy chuyển đổi NNST nhằm thích ứng với Biến đổi khí hậu và các tác động của nó cũng góp phần vào củng cố khả năng cung ứng và tiếp cận LTTP đối với Chế độ ăn lành mạnh bền vững.
Với định hướng trên, tiếp cận chuyển đổi NNST được Hội đồng chuyên gia quốc tế đề xuất dựa trên 10 yếu tố NNST của FAO và sự đồng thuận của cộng đồng khoa học quốc tế là một tiếp cận tổng hợp đã đề xuất 13 nguyên tắc để xác định các tác nhân xác định các hành động chuyển đổi trong Hệ thống LTTP .Các nguyên tắc của NNST chia làm 3 nhóm nhằm (i) nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên, (ii) tăng cường khả năng chống chịu của các hệ thống nông nghiệp và thực phẩm và (iii) đảm bảo công bằng xã hội giữa các tác nhân trong hệ thống. Cụ thể các nguyên tắc như sau:
(i) Cải thiện hiệu quả sử dụng tài nguyên
Cải thiện hiệu quả sử dụng tài nguyên bao gồm việc tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên để nâng cao lợi nhuận kinh tế, giảm thiểu các tác động tiêu cực đến môi trường và nâng cao điều kiện xã hội của những người nông dân nhỏ lẻ, người chăn nuôi và các hộ gia đình nông dân với nguồn lực hạn chế hoặc đang đối mặt với sự loại trừ. Bằng cách thu hẹp khoảng cách năng suất giữa những người nông nghiệp có năng suất cao nhất và thấp nhất trong một khu vực thông qua việc áp dụng các thực hành hiện có và công nghệ mới, sản xuất nông nghiệp có thể gia tăng, mang lại lợi ích cho sản xuất chăn nuôi và thức ăn chăn nuôi. Quá trình này có tiềm năng cải thiện chế độ ăn uống, dinh dưỡng và phát triển kinh tế thịnh vượng cho các cộng đồng dễ bị tổn thương.
Cải thiện hiệu quả Sử dụng Tài nguyên gồm 2 nguyên tắc: (1) Tái chế (Tái sử dụng): Ưu tiên sử dụng các nguồn tài nguyên tái tạo ở địa phương, tái sử dụng nguyên và sinh khối càng nhiều càng tốt; (2) Giảm đầu vào: Giảm hoặc loại bỏ sự phụ thuộc vào các đầu vào hoá chất, mua từ bên ngoài và tăng cường sử dụng tự cấp tạị chỗ.
(ii) Tăng cường khả năng chống chịu
Tăng cường khả năng chống chịu bao gồm việc củng cố khả năng chịu đựng và phục hồi sau các cú sốc về môi trường, kinh tế, tài chính và dịch bệnh động vật, đồng thời thúc đẩy sử dụng tài nguyên một cách hiệu quả. Điều này bao gồm việc thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao năng lực thích ứng, quản lý rủi ro và ứng phó với các điều kiện thay đổi. Bằng cách xây dựng khả năng chống chịu, các cộng đồng và hệ thống nông nghiệp trở nên sẵn sàng hơn để đối mặt với các thách thức và rủi ro, đảm bảo việc sử dụng tài nguyên bền vững và hiệu quả ngay cả khi đối mặt với sự rủi ro.
Tăng cường khả năng chống chịu gồm 5 nguyên tắc sau: (1) Sức khoẻ đất: Bảo vệ và tăng cường chất lượng và chức năng của đất để thúc đẩy sự phát triển của cây trồng, đặc biệt là thông qua việc quản lý các chất hữu cơ và tăng cường hoạt động sinh học của đất; (2) Sức khoẻ động vật: Bảo đảm sức khoẻ và phúc lợi của động vật; (3) Đa dạng sinh học: Duy trì và nâng cao tính đa dạng các loài, các giống và nguồn gen, từ đó suy trì tính đa dạng sinh học tổng thể của hệ sinh thái nông nghiệp theo thời gian và không gian ở quy mô đồng ruộng, trang trại và cảnh quan (vùng); (4) Cộng hưởng (hay Hiệp lực): Tăng cường sự tương tác sinh thái, cộng hưởng, tích hợp và bổ sung giữa các yếu tố của hệ sinh thái nông nghiệp (động vật, cây trồng, cây cối, đất và nước) hay giữa nông nghiệp với du lịch và các hoạt động khác; (5) Đa dạng hoá kinh tế: Đa dạng hoá thu nhập tại trang trại bằng cách đảm bảo cho những hộ nông dân có quy mô nhỏ có cơ hội độc lập hơn về tài chính và gia tăng giá trị, đồng thời cho phép họ có thể đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng.
(iii) Đảm bảo công bằng và trách nhiệm xã hội
Đảm bảo Công bằng và trách nhiệm Xã hội đề cập đến việc đảm bảo tính công bằng và trách nhiệm trong việc giải quyết một loạt các vấn đề xã hội và đạo đức trong các xã hội. Nó bao gồm các vấn đề như phân bố thu nhập, nhân quyền, bình đẳng giới, bảo trợ xã hội và bảo tồn văn hóa. Điều này đòi hỏi trách nhiệm của cá nhân và các tập thể trong việc bảo vệ môi trường, thúc đẩy phúc lợi con người và nâng cao phúc lợi của động vật. Để đạt được Xã hội công bằng/trách nhiệm bền vững, cần có các phương pháp đa dạng và phù hợp với từng bối cảnh, vì các chuẩn mực và thực hành khác nhau giữa các quốc gia và cộng đồng. Đảm bảo công bằng và trách nhiệm xã hội gồm 6 nguyên tắc: (1) Đồng sáng tạo kiến thức: Tăng cường việc sáng tạo kiến thức và chia sẻ kiến thức một cách bình đẳng, bao gồm các đổi mới của địa phương và tiến bộ khoa học kỹ thuật, đặc biệt là thông qua việc trao đổi kiến thức giữa các nông dân; (2) Giá trị xã hội và chế độ ăn uống: Xây dựng các hệ thống lương thực thực phẩm (LTTP) dựa trên văn hóa, bản sắc, truyền thống, công bằng xã hội và giới của các cộng đồng địa phương, nhằm cung cấp chế độ ăn uống lành mạnh, đa dạng, theo mùa và phù hợp với văn hóa; (3) Sự Công bằng: Hỗ trợ sinh kế đa dạng và bền vững cho tất cả các bên tham gia vào hệ thống LTTP, đặc biệt là các nhà sản xuất thực phẩm quy mô nhỏ, dựa trên thương mại công bằng, việc làm công bằng và đối xử công bằng đối với quyền sở hữu trí tuệ; (4) Sự Kết nối: Đảm bảo sự liên kết chặt chẽ và tin cậy giữa các nhà sản xuất và người tiêu dùng thông qua việc thúc đẩy các mạng lưới phân phối công bằng và ngắn, đồng thời thúc đẩy các hệ thống LTTP hội nhập vào các nền kinh tế địa phương; (5) Quản trị bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên: với sự tham gia của các tác nhân, kết hợp giữa nhà nước và cộng đồng; (6) Sự Tham gia: Khuyến khích tổ chức xã hội và tăng cường sự tham gia của các nhà sản xuất và người tiêu dùng thực phẩm vào quá trình ra quyết định chính sách để hỗ trợ quản lý và xây dựng phương thức quản lý phù hợp với địa phương của các hệ thống nông nghiệp và thực phẩm.
Trong khi đó tiếp cận Chế độ ăn lành mạnh bền vững nhằm đạt được kết qủa về dinh dưỡng thông qua chuyển đổi hệ thống LTTP dựa trên các trụ cột về đảm bảo tiếp cận lương thực thực phẩm: về khối lượng, chất lượng dinh dưỡng, đa dạng và an toàn.
Cụ thể hơn Chế độ ăn uống lành mạnh bền vững bao gồm 5 nguyên tắc hành động chính: (1) Tính đầy đủ: đầy đủ về lượng của tất cả các chất dinh dưỡng thiết yếu so với yêu cầu; (2) Sự đa dạng về LTTP : trong và giữa các nhóm thực phẩm; (3) Tính điều độ: cách thức tiêu dùng thực phẩm và chất dinh dưỡng sẽ tác động đến kết quả sức khỏe kém; (4) Tính cân bằng: về lượng năng lượng và chất dinh dưỡng đa lượng; (5) Thực phẩm tiêu thụ phải đảm bảo an toàn.
Như vậy, các nguyên tắc của tiếp cận nông nghiệp sinh thái có đề cập đến kết qủa dinh dưỡng và chế độ ăn, trong khi các nguyên tắc của Chế độ ăn lành mạnh bền vững có đề cập đến khả năng tiếp cận thực phẩm chất lượng, đa dạng và an toàn tuy nhiên chưa đủ chi tiết về phương pháp. Chính vì vậy việc phân tích mối quan hệ của hai tiếp cận trên để thúc đẩy sự phối hợp trong hành động là cần thiết.
Cụ thể là mối liên hệ giữa các nguyên tắc của nông nghiệp sinh thái (NNST) có đóng góp trực tiếp đến kết qủa dinh dưỡng là việc giảm đầu vào nông nghiệp, bảo tồn tính đa dạng sinh học, sức khoẻ vật nuôi, đa dạng hóa kinh tế, chế độ ăn và các giá trị xã hội, tính công bằng, kết nối, quản lý bền vững nguồn tài nguyên và sự tham gia. Trái lại, dinh dưỡng có thể đóng vai trò vừa là kết quả đạt được của chuyển đổi NNST vừa là yếu tố cầu thúc đẩy của thực hành NNST thông qua việc sản xuất và cung ứng thực phẩm nông nghiệp sinh thái, giàu dinh dưỡng, an toàn và đa dạng đối với người tiêu dùng. Bên cạnh đó, việc thúc đẩy hoạt động kiểm soát thất thoát và lãng phí thực phẩm trong quá trình kết nối sản xuất và tiêu dùng cũng là một hoạt động ưu tiên.
Cấp độ 4 và 5 của NNST không chỉ bao gồm sản xuất mà tập trung vào các khía cạnh kinh tế xã hội như tái gắn kết người sản xuất và người tiêu dùng và quản trị có trách nhiệm (Hình 1). Do đó, điều quan trọng là đưa chế độ ăn và tiêu dùng thực phẩm lành mạnh gắn với tăng cường kết nối giữa sản xuất và tiêu dùng.

Phối hợp các hành động đồng bộ thông qua chuyển đổi NNST và Chế độ ăn lành mạnh có thể tạo ra sự chuyển đổi bền vững trong toàn bộ hệ thống lương thực thực phẩm. Một hệ thống lương thực thực phẩm bền vững cần phải luôn cân bằng và có sự liên kết giữa sản xuất và tiêu dùng. Các nỗ lực đầu tư cần phải chú trọng cả sản xuất bền vững và thay đổi chế độ ăn và tiêu dùng sang hướng bền vững. Cần phải chú trọng tăng cường nhu cầu của người tiêu dùng về thực phẩm được sản xuất sinh thái để đảm bảo tính bền vững về kinh tế cho người sản xuất và các chủ thể khác trong hệ thống cung ứng lương thực thực phẩm. Thêm vào đó, khi có nhiều đầu tư vào sản xuất lương thực thực phẩm mà thiếu đi sự gắn kết với người tiêu dùng, người nông dân sẽ gặp nhiều rủi ro bị thiệt hại do tình trạng nguồn cung dư thừa và giá không được cải thiện hoặc giảm đi. Nhu cầu từ chính người tiêu dùng là một trong những động lực khuyến khích người nông dân áp dụng hệ thống NNST. Và nhu cầu đó chỉ xuất hiện bởi sự thay đổi chế độ ăn và lựa chọn thực phẩm theo hướng lành mạnh và bền vững hơn. Vì vậy, việc chú trọng cả sản xuất bền vững và tiêu dùng bền vững là rất quan trọng trong quá trình chuyển đổi nhằm đạt được hệ thống LTTP bền vững, minh bạch và trách nhiệm.
Về mặt phương pháp nghiên cứu, để thúc đẩy mối quan hệ NNST-Chế độ ăn lành mạnh, nguyên tắc về Chế độ ăn của 13 nguyên tắc NNST cần được bổ sung phương pháp đo đếm về Chế độ ăn lành mạnh cho người dân, chứ không nên chỉ dửng ở mức độ bảo tồn ẩm thực địa phương. Trái lại tiếp cận Chế dộ ăn lành mạnh bền vững cần mở rộng đề cập cả việc thúc đẩy sản xuất các thực phẩm giàu dinh dưỡng thông qua các mô hình Nông nghiệp đảm bảo dinh dưỡng.
Việc chia sẻ phương pháp, kiến thức và phối hợp đồng bộ giưã các hoạt động chuyển đổi NNST và Chế độ ăn lành mạnh bền vững là cần thiết để đạt được các mục tiêu chuyển HT LTTP vào năm 2030 ở Việt nam.

Hội Khoa học phát triển nông thôn (PHANO) đóng góp vào chuyển đổi hệ thống LTTP
PHANO trong nhiều năm qua đã huy động lực lượng các nhà khoa học thuộc các chuyên ngành lĩnh vực khác nhau tham gia tích cực trong quá trình chuyển đổi Hệ thống LTTP của Việt nam. PHANO hiện đóng vai trò là Thư ký quốc gia của Liên minh học hỏi về nông nghiệp sinh thái Đông Nam Á (AliSEA - https://ali-sea.org/).
Sứ mạng của Liên minh AliSEA là thúc đẩy sự hiểu biết rộng rãi về các khái niệm nông nghiệp sinh thái và các thành viên khẳng định mối quan tâm của họ đối với một cách tiếp cận toàn diện khi xem xét toàn bộ quá trình chuyển đổi nông nghiệp sinh thái. Với tinh thần của Nghị quyết 57, trong thời gian tới PHANO sẽ tập trung vào nghiên cứu các giải pháp thúc đẩy chuyển đổi Nông nghiệp sinh thái dựa trên 13 nguyên tắc, kết hợp với Chế độ ăn lành mạnh bền vững. Các kiến thức về Nông nghiệp sinh thái và Chế độ ăn lành mạnh bền vững nhằm đóng góp vào chuyển đổi hệ thống LTTP minh bạch, trách nhiệm, bền vững đến năm 2030 sẽ được chỉa sẻ, trao đổi rộng rãi trên các phương tiện truyền thông của PHANO. PHANO sẽ là một trong các trung tâm kiến thức về Hệ thống Lương thực thực phẩm và chuyển đổi Nông nghiệp sinh thái ở Việt nam. Đây là một trong các định hướng hoạt động chuẩn bị cho Đại hội Hội khoa học phát triển nông thôn (PHANO) vào năm 2025.