Góp ý vào dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng: Từ ý Đảng – Lòng dân, hướng tới kỷ nguyên mới

Trong không khí dân chủ, đổi mới và trách nhiệm, công tác góp ý vào Dự thảo Văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng đang diễn ra sâu rộng, sôi nổi trên khắp mọi miền Tổ quốc.

Từ miền xuôi đến miền ngược, từ vùng đồng bằng phồn thịnh đến miền núi, hải đảo xa xôi, hàng triệu ý kiến tâm huyết của cán bộ, đảng viên và nhân dân đã thể hiện sinh động mối quan hệ gắn bó giữa ý Đảng và lòng dân, cùng hướng về một mục tiêu chung đưa đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

dt1adh-dang-1762868537.png
 

Văn kiện Đại hội XIV – kết tinh trí tuệ và tầm nhìn chiến lược

Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng được chuẩn bị công phu, khoa học, kế thừa và phát triển sáng tạo những thành tựu của công cuộc đổi mới trong 40 năm qua. Điểm mới nổi bật là tích hợp ba báo cáo (chính trị, kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng) thành một báo cáo chính trị thống nhất, xuyên suốt – phản ánh tư duy đổi mới toàn diện trong chỉ đạo, điều hành của Đảng.

Nội dung Văn kiện đã cập nhật sâu sắc các định hướng phát triển lớn: đột phá thể chế, phát triển khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia, tinh gọn bộ máy, phát triển khu vực kinh tế tư nhân và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Những định hướng ấy vừa là kế thừa, vừa thể hiện khát vọng đưa Việt Nam vươn lên tầm cao mới – trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao vào năm 2045.

Phó Bí thư chuyên trách Đảng ủy Đài Tiếng nói Việt Nam Nguyễn Văn Chí nhấn mạnh: “Việc tích hợp nội dung, đổi mới cấu trúc báo cáo chính trị là bước tiến thể hiện bản lĩnh và tầm nhìn chiến lược của Đảng trong kỷ nguyên mới, giúp văn kiện ngắn gọn, rõ ràng, dễ tiếp cận và dễ thực thi.”

 Phát triển vùng khó – nhiệm vụ trọng tâm của phát triển bền vững

Một nội dung được đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân quan tâm trong quá trình góp ý là phát triển vùng đặc thù, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo, nơi còn nhiều khó khăn về hạ tầng, sinh kế và tiếp cận dịch vụ công.

Tại tỉnh Phú Thọ – địa phương có 91 xã, phường thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó 43 xã đặc biệt khó khăn – các ý kiến góp ý đều thống nhất rằng phát triển vùng khó phải được xác định là nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn 2026 – 2030, vừa để bảo đảm công bằng xã hội, vừa tạo nền tảng cho phát triển bao trùm.

Bí thư Chi bộ Khu Nhồi, xã Trung Sơn, bà Đinh Thị Linh cho rằng: “Văn kiện cần bổ sung nội dung ‘tăng cường chính sách ưu tiên đối với vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số’, nhất là trong đào tạo nguồn nhân lực trẻ và hỗ trợ sinh kế bền vững.”
Tại xã Khả Cửu, Chủ tịch UBND xã Kiều Đức Mạnh kiến nghị Trung ương quan tâm đầu tư các tuyến giao thông huyết mạch, thay tràn suối bằng cầu cứng, đồng thời quy hoạch dân cư an toàn, thích ứng biến đổi khí hậu, bảo đảm an sinh xã hội cho người dân vùng núi.

Những ý kiến thực tiễn ấy khẳng định: phát triển vùng khó không chỉ là bài toán kinh tế, mà là vấn đề chính trị – xã hội có ý nghĩa chiến lược, phản ánh bản chất nhân văn, công bằng của chế độ xã hội chủ nghĩa. Đó cũng là thước đo năng lực lãnh đạo và sức sống của đường lối đổi mới.

Nông nghiệp, nông dân, nông thôn – trụ cột của kỷ nguyên phát triển mới

Trong dòng chảy chung của những góp ý, vấn đề “tam nông” – nông nghiệp, nông dân, nông thôn – được xem là trọng tâm lớn gắn với phát triển vùng khó. Sau 40 năm đổi mới, nông nghiệp Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu vượt bậc: bảo đảm an ninh lương thực, xuất khẩu trên 50 tỷ USD/năm, trong đó năm 2025 có khả năng đạt 65 đến 70 tỷ USD, trở thành điểm sáng trong ổn định kinh tế vĩ mô và an sinh xã hội. Tuy nhiên, thách thức vẫn còn lớn: năng suất lao động thấp, quy mô sản xuất manh mún, thiếu liên kết vùng và ứng dụng khoa học – công nghệ chưa đồng bộ.

Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Phú Thọ Bùi Văn Quang khẳng định: “Muốn phát triển nhanh, bền vững, phải bắt đầu từ nông nghiệp, lấy nông dân làm trung tâm và nông thôn làm nền tảng. Đầu tư cho nông nghiệp là đầu tư cho tương lai.”
Phú Thọ đang triển khai nhiều mô hình nông nghiệp xanh, nông nghiệp tuần hoàn, gắn với du lịch cộng đồng và sản phẩm OCOP. Đặc biệt, các hợp tác xã kiểu mới đang trở thành cầu nối quan trọng giữa nông dân – doanh nghiệp – thị trường, góp phần tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân miền núi.

Thực tiễn Phú Thọ cũng cho thấy, chuyển đổi số trong nông nghiệp đã bắt đầu lan tỏa: một số xã vùng cao triển khai hệ thống quản lý đất đai, truy xuất nguồn gốc nông sản, thương mại điện tử nông sản đặc sản như chè Tân Sơn, bưởi Đoan Hùng, cá lồng Thanh Thủy. Đây là những tín hiệu tích cực cho thấy khát vọng đổi mới và tinh thần sáng tạo của người nông dân Việt Nam đang được khơi dậy mạnh mẽ.

Từ thực tế ấy, nhiều ý kiến đề xuất Văn kiện Đại hội XIV cần nhấn mạnh hơn vai trò của nông nghiệp công nghệ cao, kinh tế nông thôn xanh và phát triển nông dân số. Nông thôn không chỉ là nơi sản xuất, mà còn là không gian văn hóa, sinh thái và sáng tạo trong kỷ nguyên chuyển đổi số. Phát triển nông nghiệp bền vững chính là con đường thiết thực để hiện thực hóa mục tiêu “không để ai bị bỏ lại phía sau”.

Từ ý Đảng – lòng dân: hợp lực kiến tạo kỷ nguyên mới

Tại Phú Thọ, công tác lấy ý kiến góp ý cho dự thảo Văn kiện được tổ chức sâu rộng, toàn diện. Chỉ trong thời gian ngắn, hơn 25.000 lượt ý kiến đã được tổng hợp từ 2.160 tổ chức cơ sở đảng. Những góp ý tâm huyết từ vùng sâu, vùng xa đã góp phần làm cho văn kiện thêm sinh động, phản ánh đúng “hơi thở cuộc sống”, đúng với tinh thần “ý Đảng – lòng dân hòa quyện”.

Các cấp ủy trong tỉnh đã đề xuất nhiều giải pháp cụ thể để hiện thực hóa định hướng phát triển nhanh, bền vững:

Tập trung đầu tư hạ tầng giao thông, y tế, giáo dục, hạ tầng số cho vùng khó;

Phát triển kinh tế nông nghiệp xanh, du lịch sinh thái cộng đồng;

Tăng cường đào tạo nghề cho lao động nông thôn, hỗ trợ khởi nghiệp trẻ ở nông thôn;

Hoàn thiện chính sách đất đai, tín dụng và bảo hiểm nông nghiệp để khơi thông nguồn lực sản xuất.

Những ý kiến ấy không chỉ là góp ý văn kiện, mà là cam kết đồng hành cùng Đảng trong hành trình phát triển đất nước. Đây chính là biểu hiện sinh động của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa – nơi nhân dân không chỉ là đối tượng thụ hưởng mà là chủ thể kiến tạo và giám sát quá trình phát triển.

Qua hàng chục nghìn ý kiến tâm huyết, có thể khẳng định Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV là sản phẩm kết tinh trí tuệ, bản lĩnh và khát vọng phát triển của toàn dân tộc. Văn kiện thể hiện rõ quyết tâm của Đảng trong việc đưa Việt Nam bước vào kỷ nguyên phát triển nhanh, bền vững, giàu bản sắc và nhân văn.

Trong đó, nông nghiệp – nông dân – nông thôn tiếp tục được xác định là nền tảng của nền kinh tế, trụ đỡ của xã hội, không gian gìn giữ giá trị văn hóa dân tộc. Phát triển nông thôn hiện đại, văn minh, sinh thái không chỉ là nhiệm vụ kinh tế, mà còn là biểu hiện của công bằng xã hội và hạnh phúc nhân dân.

Từ những vùng đất còn nhiều khó khăn như Tân Sơn, Thu Cúc, Khả Cửu…, ý chí và niềm tin của nhân dân vẫn được hun đúc mạnh mẽ. Những con đường mới mở, những cây cầu bắc qua suối sâu, những vườn chè xanh mướt, những lớp học vùng cao sáng đèn mỗi tối – đó chính là minh chứng cụ thể cho ý Đảng được lòng dân, lòng dân thấu ý Đảng.

 “Từ ý Đảng – lòng dân, hướng tới kỷ nguyên mới” không chỉ là khẩu hiệu hành động, mà là chân lý phát triển của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới. Khi đường lối của Đảng xuất phát từ cuộc sống, được nhân dân đồng thuận và thực hiện bằng trí tuệ, sức mạnh tập thể, thì mọi mục tiêu dù lớn lao đến đâu cũng có thể đạt được.

Kỷ nguyên mới của dân tộc – kỷ nguyên của trí tuệ, công nghệ, sáng tạo và nhân văn – đang mở ra trước mắt. Trong hành trình ấy, tam nông tiếp tục là nền móng vững chắc, là điểm tựa để đất nước phát triển bền vững và bao trùm. Từ ruộng đồng, nương rẫy hôm nay, một Việt Nam hiện đại, phồn vinh và hạnh phúc đang hình thành – bằng chính sức mạnh của ý Đảng thống nhất với lòng dân.

V.X.B – N.T.D