Hai Bà Trưng trong vùng Tổng Xốm (Hà Nội) ngày nay

Trong chuyến công du Trung Quốc cuối thế kỷ XX, Giáo sư Trần Đại Sỹ, một nhà y học lừng Danh, đã kể lại những chứng tích lừng lẫy của 2 vị Vua Bà để lại trên đất Trung Hoa. Nhân ngày Phụ nữ Việt Nam 20 tháng 10 năm nay, bài viết ghi lại đôi nét về chứng tích của Hai Bà còn để lại trong vùng Hà Nội ngày nay.

Thời Pháp thuộc, tổng Xóm xưa gồm 12 làng thuộc 4 xã của Quận Hà Đông mang tên là Khả Lãm, Cổ Lãm, Phong Châu và Thắng Lãm. Tổng Xốm xưa liên quan mật thiết đến thời tiền sử với những chiến tích của Hai vị Vua Bà và dòng sông Hát huyền thoại. Ghi nhận và sắc phong của nhiều triều đại xưa, đặc biệt là những chứng tích hiện còn có liên quan đến gia đình và chiến công hiển hách của hai Bà đã thôi thúc chúng tôi tìm về Tổng Xốm với hy vọng hiểu rõ hơn về cội nguồn tại nơi có số di tích lịch sử văn hóa quốc gia xếp ở hạng hàng đầu đất nước.

hai-ba-trung-1728456557.png

Khởi nghĩa Hai Bà Trưng (Ảnh minh họa: Nguồn Tạp chí Người Hà Nội)

Dọc theo trục đường Điền dã, dường như ở những địa danh tìm đến chúng tôi đều ghi nhận được dấu ấn lịch sử về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà từ đầu công nguyên. Khởi đầu tại làng Nghĩa Lộ, chúng tôi bắt gặp đền thờ Ả Lã Nàng Dê. Ả Lã là con của Nguyễn Viêm vốn là Trưởng doanh Cổ Châu (huyện Thanh Oai cổ). Năm 20 tuổi, Ả Lã Nàng Dê đã cùng em là chàng Quốc tập hợp trai tráng làng Yên Lộ theo hai Bà Trưng đánh giặc. Cả 2 người đều đã lập nhiều công tích nhưng cùng hy sinh trên đất Cẩm Khê thuộc vùng Thanh Lãm cũ. Đến làng Thanh Lãm xưa chúng tôi đã ghi nhận có ngôi cổ miếu Linh Điền. Linh Điền thờ Bà Man Thiện là mẹ đẻ của hai Bà Trưng. Trong miếu thờ, đôi câu đối còn in nét chữ “Chát bẩm trang tư sinh quốc nữ, Địa chung láng khí tứ Thiên thần” mang nghĩa “Tư chất trang uy sinh Quốc nữ và Đất thiêng khí sáng đón Thiên thần”.

Thôn Thanh Lãm còn có mộ Bà Phùng Thị Chính, đã được công nhận là di tích lịch sử Quốc gia. Bà Chính là một nữ tướng giỏi của hai Bà Trưng, mẹ bà mất sớm, được Bà Man Thiện nuôi dạy, lớn lên, bà theo 2 chị Trưng đánh giặc, lập nhiều chiến công và hy sinh ở vùng Thanh Lãm. Trong làng Thanh Lãm còn có đền thờ Đinh Cống và Đinh Lượng là những tướng lĩnh kiệt suất của Hai Bà Trưng.

Tại đền thờ Đinh Cống còn lưu đôi câu đối “Thảo Hán tặc Kim Khê thủ nghĩa; Phù Trưng Vương Thạch trận vong thân” được dịch là: “Giết giặc Hán trọn nghĩa trên đất Kim Khê; Giúp Trưng Vương quên mình nơi Thạch trận” và “Trưng kỷ Sơn hà lưu hiển tích; Hát giang miếu điện lẫm uy linh|” mang nghĩa “Thời Vua Bà núi sông in dấu tích, miếu điện bên sông Hát vẫn còn lộng lẫy uy linh”. Ở cuối làng, giáp với đường 22 gần trường cao đẳng vật tư hiện nay còn miếu và mộ Bà Lý Thị Ngọc Ba, là mẹ chồng của Hai Bà Trưng. Đối diện với UBND xã Phú Lãm tại thôn Quang Lãm là Đền thờ và mộ của Bà Trưng Nhị. Tương truyền trong đền còn đôi câu đối “Nhất nguyên dáng văn minh chi Hội, Chi hĩ cận Thiên tử Chi Quang” được truyển tụng là “Vận hội mở kỷ nguyên văn minh, rạng rỡ thay gần với hào quang Thiên tử”.

Từ Quang lãm vào làng Vân Nội, dấu tích của Hai bà Trưng vẫn còn đậm nét, giữa làng Vân Nội là ngôi đình với cây Bồ đề Hàng nghìn năm tuổi, dân làng truyền lại, đây là nơi Bà Trưng từng cưỡi voi mỗi khi xung trận. Đình Vân Nội thờ Đống Xã là một vị tướng lỗi lạc. Theo Ngọc Phả của Đình làng, Đống Xã không chỉ có công giúp hai Bà Trưng chống giặc Hán mà còn âm phù để Lê Hoàn phá tan quân Tống, Trần Quang Khải bình Nguyên, Lê lợi đại thắng quân Minh. Thần phả Đình Vân Nội do Đông các Đại học sỹ Nguyễn Bính phụng soạn băm 1578 ghi lại “Lúc bình sinh ta giúp Trưng Nữ Vương lập một đồn tũy ở đây, khu Vân Nội xin làm đệ tử ta đồng ý. Ngay hôm đó, tướng sỹ kéo đến cùng Trưng Nữ cự chiến với tướng Mã Viện là Lý Phục Ba, quân địch thua to. Thời gian sau, Trưng nữ cự chiến với Mã Viện, ta cùng Trưng Nữ thất cơ, thua chạy về cửa Kim Quyết kiền hóa. Quốc Đại Vương mất, ta bèn quay về trước gò đồn lũy rồi hóa. Trên đó nay còn đáu tích mộ. Đó là nơi ta ở”. Ngày nay, dân làng Vân Nội đều biết đến khu Mả Đế, trong đó có phần mộ của Đống Xá.

hai-ba-trung-1-1728456557.png

Đô thị Xanh Thanh Hà trên vùng Tổng Xốm ngày nay       (Nguồn chuyenhousing.com2023)

Tìm hiểu tư liệu ở xã Phú Lương do nhà nghiên cứu Đặng Văn Tu,  nguyên giám đốc Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Hà Tây cung cấp, chúng tôi được biết thêm Kim Quyết xưa là nơi đóng đô. Thần phả còn cho biết, Bà Trưng chạy về Kim Quyết liền hóa nghĩa là Bà chết tại kinh đô của mình. Ông cho biết, ngày nay trong vùng vẫn còn lưu truyền câu tục ngữ “Thượng đa, hạ đề” gắn với truyền thuyết, ở đầu làng Vân Nội xưa có 3 gò cao trên có 3 cây đa to gọi là cây Đa chợ Tát. Tương truyền Bà Trưng đánh nhau với Mã Viện ở Thành Đá (Thạch Thành) biết không thể thắng bà liền rút về kinh đô. Đến gò cây Đa chợ Tát, Bà vượt sông và chết ở đoạn sông này. Quãng song “Thượng Đa, hạ Đề” được cho là khoảng giữa cây Đa chợ Tát đến cây Đề ở Đình Vân Nội ngày nay. Nếu giữa truyền thuyết và thần phả có sự trùng hợp thì đây có thể là chính là khu vực Kim Quyết tức kinh đô xưa của các Vua Bà.

Dấu tích xưa về Hai Bà còn được lưu giữ ở khu Mả Đế ở làng Vân Nội thuộc phường Phú Lương trong Quận Hà Đông. Truyền thuyết có kể lại rằng, Bà Trưng chết trên dòng sông Hát, nhân dân vớt được xác Bà đưa về gò đất mai táng. Từ đó, khu đất này mang tên Mả Đế. Già làng ở đây kể lại, ngày xưa mỗi lần rước Thần Đống Xã ra Quán đến khu Mộ Đế phải rước kiệu vào Mộ,h ạ kiệu báí yết rồi mới được tiếp tục rước đến quán.

Dọc theo sông Hát xưa kể từ Vân Nội về phía hạ lưu, dấu tích về Hai Bà còn lưu lại ở nhiều Làng xóm, Tại thôn Nhân Trạch có Đền thờ vợ chồng Đào Ký và Phương Dung là những vị Tướng giỏi của Hai Bà. Trong làng Động Lãm và Thượng Mạo, những ngôi chùa thờ Bà Lý Thị Ngọc Ba là mẹ chồng của Hai Bà Trưng và 5 người con là Đặng Trình, Đặng Diên, Đặng Xuân, Đặng Nghiêm và Đặng Liễu đều là những nhân vật nổi tiếng đương thời.

Từ những dấu tích và truyền thuyết còn lưu lại trong dân gian, được thể hiện trong các lễ hội truyền thốngvà phong tục địa phương cùng với những hiện vật còn lưu giữ được trong các Đình, Chùa, Đền, Miếu và ở các gia đình, dòng họ…. có thể tin là Tổng Xốm xưa là một phòng tuyến, nơi đồn trú quan trọng mà Tướng lĩnh thời Hai Bà Trưng đã lập nên để chống lại quân thù xâm lược. Đôi điều thu hoạch qua những ghi chép, người viết hy vọng có thể góp phần vào tìm kiếm thêm thông tin để làm sáng tỏ những điều đang còn nghi vấn về quê hương, sự nghiệp và nơi hy sinh của 2 vị Vua Bà./.