Hồ sơ Số 24+25+26/2025: AI BIẾT THÂN NHÂN CỦA CÁC LIỆT SĨ NGUYỄN VĂN CHÂU, LÊ TÌNH VÀ NGUYỄN ĐÌNH TỴ?

Hồ sơ mã số F034600232033, do quân Mỹ thu giữ trong các chiến dịch tại hành lang Bến Củi - Dầu Tiếng, tỉnh Tây Ninh vào cuối năm 1966, nhằm chống lại hoạt động thường xuyên của Quân Giải phóng miền Nam và ngăn chặn các cuộc xâm nhập từ Campuchia.

Chiến dịch nhắm vào các khu căn cứ như Bến Củi, một khu vực rừng rậm gồm các đồn điền cao su thời Pháp thuộc, cung cấp cả nơi ẩn náu và hậu cần cho các đơn vị Quân Giải phóng hoạt động dọc theo phần mở rộng của đường mòn Sihanouk. Vào thời điểm đó, tỉnh Tây Ninh đã trở thành một trong những khu vực bị tranh chấp dữ dội nhất ở miền Nam do vị trí địa lý và ý nghĩa chính trị của nó. Nằm gần các điểm như “Mỏ Vẹt” và “Móc Câu”. Khu vực này thường được sử dụng để đưa người và vật tư từ Bắc vào miền Nam, tránh được sự ngăn chặn của đối phương. Bến Củi là một phần của “Chiến khu C”. Trong các báo cáo của tình báo Mỹ thì đây là một khu trú ẩn lâu dài với hệ thống đường hầm, kho tiếp tế và trại huấn luyện của Quân Giải phóng miền Nam…

dt1-hung1-1750841108.jpg
 

Nội dung tài liệu là một cuốn sổ tay do Nguyễn Văn Châu ghi chép. Ông Châu có thể là một cán bộ chính trị, thuộc một cơ quan Đảng, hoặc Công đoàn cấp tỉnh, nên có nhiều thông tin quan trọng, chi tiết về các hoạt động nội bộ của Mặt trận Giải phóng, giao thoa giữa quân sự, chính trị và dân sự. Khác với các báo cáo chiến trường thông thường, các ghi chép của ông Châu đã phản ánh nhịp sống hàng ngày các hoạt động Chính quyền Cách mạng, từ huấn luyện tư tưởng và truyền bá tuyên truyền đến huy động lao động và xử lý những người bị coi là phản cách mạng. Những tài liệu này cung cấp cấu trúc phân tán, nhưng kỷ luật cao của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam và cách các cán bộ địa phương thực thi chỉ thị từ Trung ương Cục miền Nam.

dt2hung2b-1750841187.jpg
 

 

Ngoài ra, cuốn sổ ghi lại thời điểm then chốt trong diễn biến của tình hình ngay trước Tết Mậu Thân 1968 – khi lực lượng Mặt trận Giải phóng đang nỗ lực tăng cường sự ủng hộ của quần chúng, xâm nhập vào các ấp nông thôn và làm mất uy tín chính trị của Chính quyền VNCH, thông qua các chiến dịch chống bầu cử. Nội dung sổ tay cho thấy sự chuẩn bị không chỉ cho các trận đánh với đối phương, mà còn cho việc huy động dân chúng thông qua tuyên truyền, khích lệ vật chất và các phiên tòa chính trị công khai.

dt3hung3d-1750841311.jpg
 

dt4hung4h-1750841380.jpg

Ảnh đính kèm do tác giả cung cấp: Một số trang di bút và di vật có trong các Hồ sơ Chứng tích chiến tranh nêu trên

 

Cuốn sổ tay của ông Nguyễn Văn Châu ghi chép từ ngày 26/6 đến ngày 24/10/1966, cung cấp thông tin chi tiết các bản ghi viết tay về các cuộc họp, chiến dịch tuyên truyền, huy động lao động, giáo dục chính trị và các hoạt động kháng chiến dân sự. Là một nguồn tài liệu chứa đựng nhiều chi tiết về sinh hoạt hàng ngày của cán bộ “Việt Cộng” và mối tương tác với dân chúng địa phương. Nó cũng ghi nhận các trận giao tranh cụ thể và xác định thương vong phía Mỹ và VNCH, có thể có ý nghĩa quan trọng cho việc xác minh tử sĩ, hoặc mất tích. Chúng tôi xin được trích dẫn một số thông tin cụ thể như sau:

- Ngày 26/6: Huy động thanh niên tham gia lao động toàn thời gian và bán thời gian.

- Ngày 2/7: Đoàn văn công tỉnh Tây Ninh biểu diễn tại Bến Củi với khoảng 550 người tham dự; chi phí thực phẩm cho đoàn trong hai đêm là 382 VNĐ.

- Ngày 7/7: Họp hai tiếng với một số chức sắc để bàn về vấn đề lao động và đóng góp lương thực cho bộ đội.

- Ngày 7/7: Làm giấy chứng minh cho ba quân nhân đào ngũ từ Dầu Tiếng (không ghi tên).

- Thiết lập tòa án xét xử ba người bị cáo buộc chống cách mạng, kéo dài bốn tiếng với 550 người tham dự (không nêu tên bị cáo).

- Ngày 22/8: Công nhân một đồn điền cao su không rõ tên đấu tranh thành công, tăng lương từ 100 lên 105 VNĐ.

- Ngày 22/8: Tiếp nhận 2.300 tờ truyền đơn và biểu ngữ tuyên truyền để phát cho quần chúng.

- Nhiệm vụ của chi bộ Đảng: huấn luyện chính trị, vận động quần chúng, lãnh đạo đấu tranh chính trị, lập chức vụ phụ tá đồn điền, tuyên truyền tiết kiệm và tự sản xuất, tổ chức công đoàn.

- Ngày 27/8: Đơn vị vũ trang thâm nhập Ấp 1, rải 1.500 tờ truyền đơn và biểu ngữ phản đối cuộc bầu cử của đối phương; ném bốn quả lựu đạn vào đồn.

- Ngày 3/9: Rải 6.800 tờ truyền đơn và 800 biểu ngữ chống bầu cử tại Ấp 1.

- Ngày 14/9: Bàn kế hoạch giáo dục, chuẩn bị biểu ngữ để đón đoàn nhiếp ảnh tuyên truyền.

- Ngày 16/9: Gửi báo cáo hoạt động đến công đoàn tỉnh; phê bình các tổ chức công đoàn của địch như Liên hiệp Lao công do Trần Quốc Bửu lãnh đạo, Nghiệp đoàn Lao động do Lê Đình Cư, Liên minh Lao động tự do tại Xưởng Hải quân VNCH.

- Ngày 20/9: Mỹ đổ bộ từ Trảng Trường vào Bến Củi lúc 05:15; du kích giao chiến lần đầu vào ngày 24/9 và thêm hai trận nữa đầu tháng 10; nhân dân quyên góp được 6.315 VNĐ, 25kg đường và 500 quả chanh cho du kích.

- Ngày 27/9: Lực lượng đặc nhiệm VNCH tiến vào Làng 2 lúc 10:30, bị chặn tại Q.11; 3 binh sĩ VNCH bị tiêu diệt.

- Ngày 14/10: Tổ chức lớp học về tình hình địch-ta và nghị quyết của tỉnh.

- Ngày 15/10: Ghi nhận chương trình huấn luyện chính trị thường xuyên trong toàn chi bộ.

- Dân số tại đồn điền: 452 người, trong đó có 61 đoàn viên công đoàn.

- Ngày 14/10: Họp nghiên cứu nghị quyết chiến dịch Đông-Xuân của Bộ Tư lệnh Quân khu Thủ đô.

Vì vậy, tài liệu này là một cái nhìn toàn diện về mô hình nổi dậy đa chiều của Mặt trận Giải phóng trong giai đoạn quân đội Mỹ đang phải điều chỉnh học thuyết chiến tranh quy ước để đối phó với chiến tranh du kích kéo dài. Vì thế, cuốn sổ tay của ông đề cập đến nhiều địa danh cụ thể trong hành lang hoạt động Tây Ninh – Dầu Tiếng, bao gồm Bến Củi, Ấp 1, và Làng 2 – mỗi nơi đều là trung tâm của các cuộc giao tranh quân sự và bán quân sự kéo dài trong nửa cuối năm 1966. Đó là những thông tin về sự đan xen phức tạp giữa quân sự, chính trị và đời sống dân sự trong một khu vực tranh chấp gay gắt của miền Nam thời kháng chiến. Những ghi chép này cung cấp dữ liệu thời gian và không gian có thể hỗ trợ việc đối chiếu với báo cáo thương vong của Việt Nam, quân đội Mỹ và đồng minh. Do đó, sổ tay này đóng góp trực tiếp cho cả nghiên cứu lịch sử và các nhiệm vụ nhân đạo sau chiến tranh.

*

2- Hồ sơ mã số F034603880786, do quân Mỹ thu giữ ngày 11/6/1968 tại tỉnh Quảng Nam, tọa độ quân sự 48PZC209621 (xấp xỉ 15.91738°N, 107.99690°E), nay thuộc xã Đại Đồng, huyện Đại Lộc. Đó là một cuốn sổ tay nhật ký (cơ quan cấp phát cuốn sổ tay có mã số là 9530) đã được ông Lê Tình ghi chép 27 trang. Sổ tay cho biết thông tin ông Tình là cán bộ của Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 36, Sư đoàn 308. Các ghi chép trải dài từ ngày 1/1 đến 29/3/1968, mô tả quá trình hành quân từ miền Bắc vào miền Trung Việt Nam. Vì thế, các trang ghi chép chứa thông tin chi tiết về hành trình trên đường mòn Hồ Chí Minh, các cuộc họp phê bình nội bộ, chỉ thị chính trị và đánh giá tinh thần chiến sĩ. Các số hiệu hộp thư (như 62205XP/D1) và mã chỉ huy (như 62.101XP) xuất hiện xuyên suốt, cung cấp ngữ cảnh hành chính cho việc chỉ huy và điều động đơn vị.

Những cá nhân có họ tên đầy đủ, trong sổ tay nhật ký:

- Lê Tình: Sinh năm 1928, địa chỉ nhà số 7 phố Bà Triệu (không rõ là TP. Hà Nội, hay địa phương nào?); có thể là cán bộ chính trị phụ trách kỷ luật và tinh thần đơn vị. Nhật ký ghi lại các cuộc họp, nghị quyết và các quy trình phê bình-tự phê bình phù hợp với tiêu chuẩn "Bốn Tốt" của Đảng.

- Vũ Tiến Giang: Liên quan đến C3, B7 (có thể là Đại đội 3, Trung đội 7) và M.314 K.T.N.C.B 40.H, cho thấy có vai trò hậu cần hoặc chính trị liên đơn vị.

Nhật ký bị thu giữ của ông Lê Tình, một cán bộ thuộc Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 36, Sư đoàn 308 của Quân đội Nhân dân Việt Nam, cung cấp những thông tin chi tiết về quá trình hành quân từ Bắc vào Nam Việt Nam đầu năm 1968. Với 27 trang, cuốn nhật ký này cho thấy cái nhìn hiếm hoi về việc di chuyển ở cấp độ cá nhân và đơn vị, công tác giáo dục chính trị của Đảng, và hệ thống hậu cần của đường mòn Hồ Chí Minh. Đồng thời, nó còn chứa đựng những dữ liệu có giá trị cho nghiên cứu lịch sử và công tác tìm kiếm MIA/KIA (mất tích/ trận vong).

Theo đánh giá của Tình báo Mỹ: Về mặt chiến lược, nhật ký của ông Lê Tình phản ánh nỗ lực của Hà Nội trong việc duy trì sức ép quân sự sau Tết Mậu Thân. Sư đoàn 308 – một trong những đơn vị dày dạn kinh nghiệm và danh tiếng nhất của miền Bắc, từng tham chiến từ thời kháng chiến chống Pháp – đóng vai trò chủ lực trong việc kéo dài thế tấn công bằng cách đưa lực lượng tinh nhuệ vào chiến trường miền Nam. Việc điều động Trung đoàn 36 dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh không chỉ là một quyết định chiến thuật mà còn là thông điệp chính trị: khẳng định động lực cách mạng vẫn tiếp diễn. Nhật ký cho thấy chiến dịch này gắn liền với chỉ đạo của Đảng, nhấn mạnh cam kết tư tưởng, kỷ luật và niềm tin vào chiến thắng cuối cùng.

Về mặt tổ chức, các đơn vị được sắp xếp chặt chẽ. Sư đoàn 308 (DN-308) quản lý Trung đoàn 36 (RT-36), trong đó Tiểu đoàn 1 (BN-1) tương ứng với Số Hộp Thư 6220XP/D1. Tài liệu cũng nhắc đến các đơn vị liên quan như Đơn vị 9530 – một đơn vị giáo dục chính trị – và Ban Chỉ huy 62.101, có thể là nơi phát hành nhật ký. Những thông tin này cho thấy một hệ thống kiểm soát quân sự–chính trị rất chặt chẽ trong nội bộ Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Xét theo thời gian và không gian, nhật ký ghi lại một cách đặc biệt chi tiết. Ông Lê Tình bắt đầu hành trình ngày 5/2/1968 tại huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc Hà Nội), đi qua Lạc Thủy (Hòa Bình), Nông Cống và Triệu Sơn (Thanh Hóa), Đô Lương và Nam Đàn (Nghệ An), và Minh Hóa (Quảng Bình) trước khi vượt sang Lào. Từ ngày 14 đến 25/2, ông di chuyển qua mạng lưới hậu cần của Đoàn 559, đi qua các Trạm 1 đến 10 dọc các tuyến đường 20, 28 và 9, và qua các tỉnh Khăm Muộn và Savannakhet. Khi trở lại Việt Nam ngày 1/3, ông đi qua huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, theo hành lang từ Trạm 41 đến 57, đến các khu vực như Liên Sơn và Đông Sơn. Những địa điểm cuối cùng gồm A Tét, Bản A So (thuộc Quảng Nam), khu vực Quảng Đà (R20), và huyện Đại Lộc – nơi đơn vị đang chuẩn bị cho một trận đánh vào cuối tháng 3.

Nhật ký cho thấy Lê Tình là một cán bộ kỷ luật, trung thành về tư tưởng, có thể giữ vai trò chính trị viên. Một nhân vật khác được nhắc đến là Vũ Tiến Giang – cho thấy có sự điều phối giữa các đại đội và tiểu đoàn. Biên bản họp chi bộ ghi nhận 17 đảng viên, trong đó 14 người có mặt, với nội dung nhấn mạnh kỷ luật, sẵn sàng chiến đấu, học tập chính trị và thực hiện “Bốn tốt”: tư tưởng, tổ chức, lãnh đạo và học tập. Những nguyên tắc này là nền tảng cho tinh thần và chuẩn bị trong suốt hành trình xâm nhập.

Về mặt chiến thuật, bản đồ di chuyển được ghi trong nhật ký rất quan trọng. Nó đề cập đến các địa danh then chốt như Cao điểm 82 và các trạm quân sự dọc tuyến đường mòn. Các mục ghi chép ngày 16 tháng 3 liên quan đến chuẩn bị chất nổ, và vị trí cuối cùng tại Quảng Đà vào ngày 27/3. Những chi tiết này cho thấy chu trình chuẩn bị trước chiến đấu và giúp tái dựng lại bối cảnh các trận đánh. Những đánh giá thẳng thắn của Lê Tình về các điểm yếu nội bộ, như kỷ luật lỏng lẻo hay lãnh đạo kém, cũng góp phần hé lộ khía cạnh con người trong kháng chiến, vốn thường bị che giấu trong các báo cáo chính thức.

Về khía cạnh MIA/KIA, nhật ký có giá trị rất lớn. Tính chính xác trong ngày tháng, tuyến đường, và tên địa phương cho phép đối chiếu với hồ sơ tổn thất của quân đội Mỹ, đặc biệt tại Khu Chiến Thuật 1 (CTZ 1). Các địa điểm như Duy Xuyên và Đại Lộc – nơi nhật ký kết thúc – là khu vực hoạt động của Thủy quân lục chiến Mỹ, trong đó có đơn vị 1/3/26. Việc đề cập đến các trạm quân sự, Số Hộp Thư, và thông tin cá nhân như địa chỉ cư trú giúp mở rộng khả năng xác định đồng đội Việt Nam hoặc thân nhân. Những dữ liệu này có thể được sử dụng cho công tác khai quật chiến trường, phỏng vấn nhân chứng và phục hồi ký ức chiến tranh. Đồng thời, cung cấp cho giới nghiên cứu, thân nhân và nhà hoạch định chính sách một nền tảng cho sự tưởng niệm và hồi hương.

*

3- Hồ sơ mã số F034604981643 bị quân đội Mỹ thu giữ ngày 19/2/1969 tại tỉnh Long Khánh (nay là xã Mễ Dụ, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai), tọa độ 11.18128°B, 107.04948°Đ. Gồm 4 tài liệu chính, tất cả đều liên quan đến Nguyễn Đình Tỵ, một cán bộ quê tại xã Nam Chính, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương.

- Tài liệu thứ nhất là phong bì thư cá nhân do Vũ Thị Thuận, người cùng quê, gửi cho ông Tỵ qua địa chỉ Hộp thư 92.155LT, với bí danh “Cầu Sấu”. (Có thể là tên mã của một căn cứ tiền phương tại Tây Ninh hoặc Bình Dương?).

- Tài liệu thứ hai là Giấy khen đề ngày 6/6/1968, do Trần Lam ký, chỉ huy Đơn vị 335 (nhiều khả năng là Trung đoàn 95A?), tuyên dương Trung sĩ Nguyễn Đình Tỵ với vai trò là Tiểu đội phó của Đại đội Thông tin 18.

- Tài liệu thứ ba là Giấy chứng nhận Chiến sĩ thi đua xuất sắc, đề ngày 8/11/1968, do Quang Đông ký, công nhận Chuẩn úy Nguyễn Đình Tỵ trong vai trò Chính trị của Đại đội 18.

- Cuối cùng là Giấy khen khác cũng do Quang Đông ký ngày 8/11/1968, ghi nhận vai trò Chính trị viên của Tỵ tại Đại đội Trinh sát 21.

Những tài liệu này phác họa quá trình Phát triển sự nghiệp từ quân sự sang chính trị của ông Nguyễn Đình Tỵ trong nội bộ Trung đoàn 95A, qua đó cho thấy cán bộ của Quân Giải phóng miền Nam được đào tạo không chỉ về kỹ năng chiến đấu mà còn về lý luận chính trị. Các phần thưởng chính trị này không chỉ phản ánh hiệu quả chiến đấu mà còn biểu dương tính trung kiên về tư tưởng, khẳng định Tỵ là một cán bộ gương mẫu.

Địa điểm thu giữ hồ sơ tại tỉnh Long Khánh, một khu vực chiến lược nằm dọc theo các tuyến xâm nhập từ biên giới Campuchia, xác nhận vị trí tác chiến của đơn vị ông Nguyễn Đình Tỵ vào thời điểm đó. Việc ông từng phục vụ trong cả Đại đội Thông tin và Đại đội Trinh sát cho thấy ông đảm nhiệm những vị trí đòi hỏi tính cơ động, khả năng truyền tin chiến thuật, và trực tiếp tham gia chiến đấu tuyến đầu, đặc biệt trong giai đoạn cao điểm của các chiến dịch càn quét của quân Mỹ đầu năm 1969. Việc hồ sơ cá nhân và tài liệu chính thức của ông được phát hiện tại khu vực này cho thấy ông hoặc đơn vị của ông có khả năng vừa tham chiến hoặc vừa rút quân. Không có tài liệu nào bị thu sau tháng 11/1968 và cũng không có thư từ tiếp theo, cho phép suy luận rằng thời điểm “cuối cùng còn sống được biết” của ông Tỵ nằm trong khoảng cuối năm 1968 đến đầu năm 1969. Hồ sơ có thể đã bị bỏ lại sau trận đánh, do thiệt hại chiến đấu hoặc tử trận, từ đó tăng giá trị pháp lý của chúng trong công tác điều tra MIA hoặc KIA (mất tích hoặc hy sinh).

Bản đồ hành trình, được Tình báo quân đội Mỹ dựng lại từ các dữ kiện có trong Hồ sơ, cho thấy hành trình của Nguyễn Đình Tỵ từ quê hương Nam Chính, Hải Dương, qua địa chỉ dã chiến Hộp thư 92.155LT (“Cầu Sấu”) ở Tây Ninh, và đến điểm thu giữ cuối cùng tại Long Khánh. Những địa điểm này trùng khớp với các tuyến xâm nhập đã biết chạy qua Tây Nguyên vào vùng Chiến thuật III, đặc biệt là các căn cứ như Khu vực 708 và các khu căn cứ Quân Giải phóng miền Nam dọc biên giới Campuchia. Các khu vực này là trọng điểm của các chiến dịch không kích và càn quét quy mô lớn của quân đội Mỹ suốt những năm 1968–1969. Việc hồ sơ của Tỵ được phát hiện trong khu vực giao tranh như vậy củng cố khả năng ông đã hoạt động trong các môi trường có mức độ nguy hiểm cao. Khi đối chiếu với dấu vết hoạt động của Trung đoàn 95A, Sư đoàn 5, các dữ liệu về không gian và thời gian trong hồ sơ này cung cấp những manh mối quan trọng trong việc xác định hài cốt chưa được tìm thấy, lịch sử đơn vị, và hỗ trợ công tác hồi hương hoặc liên lạc với thân nhân. Nếu Nguyễn Đình Tỵ đã tử trận, bị thương hoặc bị bắt trong khoảng thời gian này, thì những tài liệu này có thể là một trong số ít những bằng chứng còn lại về hoạt động cuối cùng của ông. Việc bảo tồn và phổ biến tài liệu này một cách có trách nhiệm sẽ đóng góp thiết thực cho công cuộc tưởng niệm, phục hồi di sản và công lý nhân đạo cho những ai vẫn đang đi tìm câu trả lời về những người lính đã mất trong chiến tranh.

Hà Nội, 24/6/2025

TTNL