Viết về Bà mẹ Việt Nam Anh hùng Ngô Thị Khướu - Thương binh 2/4
Tôi không thể nào quên những năm tháng ác liệt đó trong ký ức tuổi thơ, khi chứng kiến những trận càn, pháo kích và bắn rốc két của máy bay Mỹ; không đêm nào là không có tiếng súng nổ và sự chết chóc; hàng trăm du kích, cán bộ “nằm vùng” của ta đã bị địch phục kích, hy sinh, nhiều dân thường bị sát hại. Ác liệt, hiểm nguy là thế nhưng những cán bộ kháng chiến vẫn bám trụ kiên cường. Lòng dân vẫn kiên trung, tìm mọi cách để tiếp tế, nuôi dấu, chở che, bảo vệ cán bộ cách mạng, du kích và bộ đội; không khuất phục trước sự đàn áp của kẻ địch.
Người mẹ thương binh
Bà Ngô Thị Khướu, người làng Như Lệ, xã Hải Lệ (thuộc huyện Hải Lăng, nay thuộc TX Quảng Trị). Chồng bà tham gia cách mạng từ thời phong trào 1936 - 1939. Sau đó gia nhập lực lượng vũ trang chống Nhật, Pháp và hy sinh năm 1947, khi 2 con trai của vợ chồng bà mới 5 và 7 tuổi. Nén nỗi đau mất chồng, bà nuôi hai con học hành, khôn lớn.
Năm 1954, kháng chiến chống Pháp thắng lợi, hòa bình lập lại, những tưởng chiến tranh đã lùi xa, nhưng Nhân dân ta lại phải bước vào cuộc chiến đấu mới đầy hy sinh gian khổ. Đầu những năm 1960, hai người con của bà lần lượt lên đường đi theo tiếng gọi của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam.
Vào một đêm cuối năm 1965, tôi chợt tỉnh giấc khi nghe tiếng thì thào của người lớn. Trong màn đêm lờ mờ, tôi nhận ra cha tôi đang nói chuyện với Nguyễn Trường Thanh - người con trai út của bà Ngô Thị Khướu. Thời kỳ này, dù là “đêm ta, ngày địch” nhưng lính địa phương quân, lính bảo an rất hay đi tuần, phục kích nên du kích và cán bộ ta chỉ về gặp cơ sở bí mật, nhận tiếp tế rồi rời khỏi làng trước lúc trời sáng. Anh Thanh hỏi thăm tình hình, nhận từ cha tôi ít thuốc tây và chiếc radio nhỏ gọn, cho vào chiếc gùi rồi chào và đi vội.
Màn đêm tĩnh mịch bao trùm, chỉ còn nghe tiếng côn trùng rên rỉ, ngân nga những âm điệu khi thì như bi ai, than vãn, khi thì như thiết tha, hối hả, tranh nhau phát ra âm thanh để chứng tỏ mình đang tồn tại trên mặt đất này. Tôi đang ngon giấc thì tiếng súng tiểu liên nổ liên thanh rất gần, nghe chói tai, đạn bay găm vào cột nhà, vật dụng nghe lịch bịch, lách cách rợn người. Cả nhà tôi kịp xuống hầm trú ẩn, may mắn không ai hề hấn gì. Tiếng súng kéo dài hơn 5 phút thì im, tôi nghe tiếng quát tháo của bọn lính và tiếng kêu la thảm thiết của bà Khướu. Cha tôi cố hướng ra cửa hầm la rõ to:
Xin đừng bắn nữa, ở đây chỉ có dân thường.
- Bà Khướu có răng (sao) không? Cha tôi tiếp tục hỏi dồn dập như thế 2, 3 lần và nghe tiếng bà:
- Cứu tui với, út bị thương rồi eng (anh) ơi!
Không khí trở nên im ắng đáng sợ. Tiếng rên của bà Khướu mỗi lúc một yếu ớt. Cả nhà nghẹn ngào nghĩ chắc chúng bắn Thanh rồi. Mấy lần cha tôi ngồi dưới hầm lên tiếng, hỏi vu vơ vào màn đêm:
- Xin cho thắp đèn đi cứu người được không?
Không có tiếng lính trả lời, đồng nghĩa với nguy hiểm đang rình rập, không ai dám ra khỏi hầm trú ẩn.
Cứ như thế, thời gian trôi đi chậm chạp trong lo âu. Trời sáng dần, một toán lính đằng đằng sát khí đến nhà tôi yêu cầu mọi người ra khỏi hầm sang tập trung ở sân nhà bà Khướu. Tại đây, cả nhà mới biết chúng bắn bà Khướu bị thương, đã đưa đi cấp cứu. Chúng vào nhà, xuống hầm trú ẩn kéo lên một thi thể bắt mọi người nhận mặt. Đó là anh Phong du kích xã - người em ruột của chị dâu tôi. Chúng tra hỏi và bắt chị, con dâu của bà Khướu và một số người nữa giải về nhà lao, tra tấn, khai thác thông tin, hơn một năm sau mới thả về. Bà Khướu sau khi điều trị, tra khảo mà không moi được thông tin gì nên chúng buộc phải trả tự do, nhưng chân của bà không còn lành lặn.
Anh Thanh thoát chết lần đó và biệt tin luôn, bà Khướu lại khắc khoải chờ đợi trong hy vọng. Mấy tháng sau, bà vỡ òa hạnh phúc vì con trai trở về lành lặn. Anh Thanh kể lại, đêm đó khi 2 người vừa vào nhà thì bọn lính đi tuần phát hiện, chúng tiếp cận và nổ súng. Bị bất ngờ, người đồng đội bị thương nặng sau loạt đạn đầu, bò xuống hầm và hy sinh. Anh Thanh không hề gì, nằm sát xuống góc sàn nhà tránh đạn, rút quả lựu đạn mỏ vịt cầm tay, sẳn sàng cho nổ để cùng chết nếu chúng ập vào. Không thấy bắn trả, bọn lính nghĩ rằng “Việt cộng” đã bị tiêu diệt nhưng cũng không dám soi đèn xông vào nhà mà đợi đến lúc trời sáng. Thừa cơ hội, Thanh thoát ra cửa sau an toàn.
Sự hy sinh của người mẹ vì Tổ quốc
Thế rồi, đầu năm 1968, bà Khướu ngã quỵ khi nhận tin người con trai cả hy sinh, để lại vợ và 2 đứa con thơ mới 3 và 6 tuổi. Hồi đó tôi còn nhỏ, chỉ cảm nhận được phần nào nỗi đau của bà. Nhà bà Khướu cách nhà tôi một vạt đất chừng mươi mười lăm mét, hàng ngày ngày tôi thường thấy bà ngồi nhìn ra ngõ vắng, hai bên có 2 hàng rào bằng cây “chè tàu” được xén thẳng tắp, đôi mắt bà ngấn nước nhìn xa xăm như đang chờ mong vô vọng chồng và đứa con đi xa chưa về. Bà dồn tất cả yêu thương cho 2 đứa cháu nội và mong ngóng, cầu mong cho đứa con trai út, anh Nguyễn Trường Thanh chân cứng đá mềm.
Tôi còn nhớ và hình dung được đôi chút về Nguyễn Trường Thanh, người tầm thước, đẹp trai, đang học trung học đệ nhị cấp thì bỏ học “lên rừng” theo cách mạng, ngoài 20 tuổi đã là cán bộ cốt cán trên huyện. Sau lần về thăm mẹ, nghe nói huyện điều anh ấy về làm Chủ tịch Ủy ban Nhân dân cách mạng xã Hải Trường (huyện Hải Lăng) - một địa bàn mà địch khủng bố trắng nhiều cơ sở cách mạng bí mật của ta.
Chiến tranh ngày càng ác liệt, những ngày cuối năm 1970 trời như sập xuống, niềm hy vọng mong manh vụt tắt, bà Khướu đau đớn tột cùng khi nhận được tin con trai đã hy sinh. Bọn địch sát hại và đem xác Nguyễn Trường Thanh đi đâu mất tích, gia đình đi nhiều nơi dò hỏi cũng không tìm được, anh hy sinh khi mới 28 tuổi, bỏ lại mối tình đầu dang dở với người con gái cùng quê - một nữ du kích cách mạng. Quá đau buồn vì mất người đồng chí, người mình yêu, cô ấy không lấy chồng mà ở vậy để giữ trọn lời thề ước với người chồng chưa cưới trước khi hy sinh.
Đau thương dồn dập, tháng 5.1972 người con dâu của bà Khướu cũng bị bom Mỹ giết hại. Ở tuổi 60, bà chỉ còn lại hai đứa cháu nội để nương tựa sớm hôm.
Cho đến bây giờ, lòng tôi vẫn thấy nhói đau mỗi khi hình dung nỗi khắc khoải đi qua tháng ngày của người mẹ thương binh 2/4 hết chờ mong tin chồng, đến chờ tin con trong suốt cả cuộc đời.
Sau ngày đất nước thống nhất, gia đình và đồng đội của anh tiếp tục tìm kiếm hài cốt liệt sĩ Nguyễn Trường Thanh. Lãnh đạo địa phương thường xuyên thăm hỏi, an ủi bà Khướu, lập hồ sơ xét tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng và Huân chương Độc lập cho bà. Biết vậy, bà chỉ ứa nước mắt - những giọt nước mắt cuối đời đã cạn khô - mà rằng: Cảm ơn Đảng, Chính phủ và xin không nhận danh hiệu, huân chương gì hết khi chưa tìm được hài cốt của con mình. Ai cũng quặn lòng khi nghe bà Khướu nói như thế.
Cuối cùng, với nỗ lực không mệt mỏi của người vợ chưa cưới và gia đình, đồng đội, manh mối về sự hy sinh và nơi chôn anh Thanh được tìm ra từ những nhân chứng còn sống sót. Năm 1994, hài cốt liệt sĩ Nguyễn Trường Thanh được cất bốc, làm Lễ truy điệu, đưa về an táng ở nghĩa trang sau 24 năm hy sinh và sau bao năm bà Khướu mòn mỏi chờ đợi.
Cuộc đời cũng không nỡ cướp hết của bà Khướu, các cháu nội một trai, một gái trưởng thành, giỏi giang, ngoan hiền, bản lĩnh và đều là đảng viên của Đảng.
Năm 1995, bà Khướu nhận danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng, sống tiếp quãng đời còn lại trong sự yêu thương, phụng dưỡng, hiếu đạo của cháu nội. Bà Khướu mất năm 2014, thọ 102 tuổi. Nhà nước truy tặng bà Huân chương Độc lập hạng Ba.
Tôi viết những dòng này vào dịp kỷ niệm 75 năm ngày Thương binh - Liệt sĩ 27-7 như thắp một nén nhang lòng để tưởng nhớ thím tôi - bà Ngô Thị Khướu cũng như nhiều bà mẹ Việt Nam khác nữa, đã chịu bao hy sinh, mất mát để thế hệ chúng tôi hôm nay và mai sau nữa được biết giá trị của hòa bình./.