Tuy nhiên, chính bối cảnh ấy cũng mở ra cơ hội để biến văn hóa truyền thống thành nguồn lực phát triển thông qua du lịch cộng đồng – mô hình đang chứng minh hiệu quả tại nhiều địa phương.
Văn hóa – Tài sản chiến lược trong phát triển bền vững
Trong các nghị quyết và chiến lược phát triển quốc gia, Đảng và Nhà nước luôn xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, đồng thời là động lực để phát triển kinh tế – xã hội. Đối với các dân tộc thiểu số, văn hóa lại càng quan trọng, không chỉ bởi tính độc đáo mà còn vì đây là nguồn lực có thể biến thành “tài sản” thông qua các hoạt động du lịch.

Điệu hát Then ngân vang ca ngợi vẻ đẹp quê hương lay động lòng người phương xa đến với Làng du lịch cộng đồng Quỳnh Sơn (Lạng Sơn). Ảnh: Internet.
Cục trưởng Cục Văn hóa các dân tộc (Bộ VHTTDL), ông Trịnh Ngọc Chung, cho rằng nâng cao đời sống cho đồng bào chỉ thực sự bền vững nếu biến văn hóa thành giá trị kinh tế. Du lịch, đặc biệt là du lịch cộng đồng, chính là con đường vừa nhanh vừa hiệu quả. “Khi văn hóa gắn với du lịch, đời sống vật chất của người dân được cải thiện, còn các tri thức, phong tục, lễ hội của đồng bào được gìn giữ và lan tỏa sâu rộng”, ông Chung nhấn mạnh.
Tuy vậy, sự phát triển của công nghệ, nhất là các nền tảng số và AI, đặt ra yêu cầu mới: nếu thiếu cơ chế và chính sách bảo vệ, di sản văn hóa có nguy cơ bị biến dạng hoặc thương mại hóa quá mức. Vì vậy, ông Chung cho biết Cục đang đề xuất xây dựng Nghị định chuyên biệt về bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc thiểu số trình Chính phủ vào năm 2026 – bước đi được kỳ vọng sẽ tạo khuôn khổ pháp lý chặt chẽ cho công tác bảo tồn trong thời kỳ mới.
GS.TS Bùi Quang Thanh (Viện Văn hóa Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam) đánh giá cao hệ thống chính sách của Việt Nam đối với lĩnh vực văn hóa và du lịch. Tuy nhiên, ông chỉ ra rằng thiếu các hoạt động sơ kết, tổng kết và thiếu mô hình triển khai thực tế đang khiến nhiều chính sách chưa phát huy hết hiệu quả.

Du khách trải nghiệm giã bánh dày ở làng du lịch cộng đồng Quỳnh Sơn, Lạng Sơn. Ảnh: TTXVN
GS Thanh đề xuất nghiên cứu và thực hiện sáu mô hình bảo tồn và khai thác giá trị di sản, tương ứng với sáu vùng văn hóa lớn của cả nước. Các mô hình này không chỉ giúp nhận diện rõ nét bản sắc vùng miền mà còn tạo nền tảng lý luận – thực tiễn để các thế hệ sau tiếp tục phát triển, tránh tình trạng làm du lịch theo kiểu phong trào hoặc sao chép, dẫn đến sản phẩm du lịch bị trùng lặp.
Theo ông Thanh, muốn bảo tồn hiệu quả phải gắn với khai thác bền vững. Bảo tồn “để đấy” hoặc khai thác đơn điệu, hời hợt đều không mang lại giá trị. Những mô hình mẫu, nếu được triển khai bài bản, sẽ tạo động lực mạnh mẽ để các địa phương học hỏi và áp dụng theo đúng đặc thù vùng miền.
Du lịch cộng đồng – môi trường để văn hóa lan tỏa
PGS.TS Nguyễn Thị Song Hà (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) cho rằng chỉ khi văn hóa được thực hành trong đời sống, nó mới có thể sống động và lan tỏa. Vì vậy, du lịch cộng đồng là nền tảng giúp văn hóa dân tộc thiểu số được bảo tồn một cách tự nhiên, không gượng ép. Đây cũng là môi trường lý tưởng để thanh niên các tộc người tiếp nhận, học hỏi và kế thừa di sản của cha ông.
PGS Hà nhấn mạnh: cộng đồng chính là chủ thể sáng tạo văn hóa, là người trực tiếp làm ra các trải nghiệm du lịch. Việc phát triển sản phẩm du lịch đặc thù – mang hơi thở và bản sắc riêng của từng tộc người – là yêu cầu cấp thiết. Tuy nhiên, tại nhiều địa phương, sản phẩm du lịch vẫn còn bị “đại trà”, chưa khai thác hết chiều sâu văn hóa. Điều này khiến du khách khó tìm thấy sự độc đáo – yếu tố quan trọng để họ quay lại.
Bà đề xuất tăng cường đào tạo kỹ năng du lịch, kỹ năng truyền thông số và hiểu biết văn hóa cho người dân; đồng thời phát triển các sản phẩm mới dựa trên di sản phi vật thể như nghệ thuật trình diễn, lễ hội, ẩm thực, tri thức bản địa về nông nghiệp, dược liệu…
Thúc đẩy du lịch văn hóa trong thời đại số
Một ví dụ tiêu biểu về mô hình hiệu quả là Làng du lịch cộng đồng Quỳnh Sơn (Lạng Sơn). Khác với vẻ đẹp ruộng bậc thang của Lào Cai hay Tuyên Quang, Quỳnh Sơn nổi bật bởi những cánh đồng lúa bằng phẳng, thung lũng Bắc Sơn được bao bọc bởi núi đá vôi trùng điệp.
Làng Quỳnh Sơn – nơi hơn 400 hộ dân tộc Tày, Nùng sinh sống – được xem là “điểm nhấn vàng” của du lịch Lạng Sơn. Những ngôi nhà sàn kiến trúc đồng nhất, cửa quay hướng Nam, cùng không gian sinh hoạt cộng đồng giàu bản sắc tạo nên sức hút đặc biệt đối với du khách trong và ngoài nước.
Hiện làng có gần chục homestay đạt chuẩn, phục vụ hàng trăm khách mỗi ngày. Mỗi năm, Quỳnh Sơn đón khoảng 15.000 lượt khách tham quan và 4.000 lượt lưu trú. Du khách có thể trải nghiệm gặt lúa, chế biến món truyền thống, xem biểu diễn hát Then, đàn tính, hoặc đơn giản hòa mình vào không gian văn hóa Tày – Nùng đặc sắc. Những điều này giúp văn hóa được thực hành thường xuyên, lan toả, trở thành một phần của cuộc sống, không bị sân khấu hóa hay mai một.
Để du lịch cộng đồng thực sự trở thành động lực phát triển kinh tế – xã hội cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số, các chuyên gia cho rằng cần đồng thời thực hiện nhiều giải pháp:
Hoàn thiện hành lang pháp lý, đặc biệt là Nghị định mới về văn hóa dân tộc thiểu số.
Từng bước xây dựng mô hình mẫu, tạo điểm tham chiếu để nhân rộng.
Phát triển sản phẩm du lịch đặc thù, gắn với bản sắc từng tộc người.
Tăng cường đào tạo và nâng cao năng lực cho cộng đồng, coi người dân là trung tâm của mọi hoạt động.
Ứng dụng công nghệ thông minh để quảng bá di sản, quản lý điểm đến, phát triển trải nghiệm du lịch số – nhưng không để công nghệ lấn át giá trị nguyên gốc.
Du lịch cộng đồng không chỉ giúp bảo tồn văn hóa truyền thống mà còn mở ra con đường phát triển kinh tế bền vững cho các vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Khi văn hóa được chuyển hóa thành sản phẩm du lịch giàu bản sắc, kết hợp với lợi thế của công nghệ hiện đại và chính sách đồng bộ, di sản văn hóa của các dân tộc không chỉ được gìn giữ trọn vẹn mà còn lan tỏa mạnh mẽ, đóng góp tích cực vào hình ảnh Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
V.X.B – N.T.D