Quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng ở Việt Nam

Tài chính và quản lý yếu kém gây nguy cơ cho tương lai năng lượng. Trong những tháng cuối năm 2024, Maureen Harris Chang cố vấn cấp cao của Mạng lưới Sông ngòi Thế giới (Net International River) đồng thời cũng là điều phối viên của Liên minh Bảo vệ Khí hậu Việt Nam, đã cùng Liangyi Chang, giám đốc điều hành khu vực Châu Á nghiên cứu và công bố trên Nikkei Asia. Bài viết nhan đề “Quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng ở Việt Nam” nhằm rộng đường trao đổi, dưới đây là những điểm nổi bật.

12345-1736675959.png

Khói bốc lên từ ống khói của một nhà máy giấy ngoại thành ngoài Hà Nội

Phụ thuộc nhiều vào than đá, Việt Nam được coi là một trong những quốc gia phát thải khí nhà kính bình quân đầu người nhanh nhất thế giới. Với lượng khí thải tăng gấp bốn lần từ năm 2000 đến năm 2015. Việt Nam là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất ở Đông Nam Á. Từ nhu cầu năng lượng dự kiến gia tăng 6 lần trong giai đoạn 2020-2050; Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ cho rằng, Việt Nam là một trong năm quốc gia dễ bị tổn thương nhất do biến đổi khí hậu (BĐKH) và đang trong thời điểm quan trọng để giải quyết khủng hoảng khí hậu. Lãnh đạo đất nước không làm ngơ trước những thách thức này.

Tại COP26 ở Glasgow năm 2021, lãnh đạo Nhà nước Việt Nam đã đưa ra cam kết  về khí hậu, với mục tiêu đạt mức phát thải carbon ròng bằng 0 vào năm 2050. Điều này đã mở đường cho Đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP), một cơ chế tài chính mới nhằm đẩy nhanh quá trình chuyổi đổi năng lượng sạch ở các nền kinh tế mới nổi. Với Liên minh châu Âu, Nhóm G7 và các quốc gia Bắc bán cầu thường được gọi là Nhóm đối tác quốc tế. Một trọng tâm rõ ràng của JETP là giải quyết những hậu quả xã hội to lớn của sự thay đổi mang tính chuyển đổi trong quá trình chuyển đổi năng lượng.

Sau Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu năm 2015 và các văn bản quốc tế khác, phần “Công bằng” đã phản ánh bằng sự công nhận tài chính năng lượng và khí hậu, cần giải quyết bất bình đẳng và bất công trong lịch sử như một phần của quá trình khử cacbon.

Theo các điều khoản của JETP Việt Nam, các thành viên IPG đã cam kết tài trợ 15,5 tỷ đô la từ nguồn tài chính công và tư. Mặc dù các khoản tiền này chỉ chiếm một phần nhỏ trong số 135 tỷ đô la ước tính cần thiết để thực hiện các kế hoạch phát triển điện Việt Nam vào năm 2030 và cần một khoản tiền cao hơn nhiều để thực hiện quá trình chuyển đổi năng lượng vào năm 2050. JETP có tiềm năng thiết lập một khuôn khổ quản trị có thể thúc đẩy quá trình lập kế hoạch và đầu tư hướng tới quá trình chuyển đổi năng lượng công bằng, được tài trợ và không sử dụng nhiên liệu hóa thạch. Điều này bao gồm mục tiêu đạt được của quá trình chuyển đổi công bằng (JETP) và toàn diện thông qua sự tham gia và “đồng thuận xã hội rộng rãi” nêu trong tuyên bố chính trị thiết lập quan hệ đối tác này. Theo một số nghiên cứu, công lý trong JETP ở Việt Nam còn thiếu, những tác động đối với thành công trong quá trình chuyển đổi năng lượng rộng lớn hơn và không thể được cường điệu hóa.

Báo cáo của International Rivers và Liên minh Bảo vệ Khí hậu Việt Nam có tiêu đề “Sự Công bằng còn thiếu trong Đối tác Chuyển đổi Năng lượng Công bằng (JETP) của Việt Nam” được công bố gần đây đã gợi ra  những vấn đề về tài chính, quản trị, giải pháp năng lượng và sự tham gia của công chúng còn bị cản trở trong những nỗ lực hướng tới một quá trình chuyển đổi thực sự công bằng.

Trọng tâm của những lo ngại tập trung vào áp lực phải chịu của các nhà hoạt động vì khí hậu và môi trường. Trong những năm gần đây, chính quyền Việt Nam còn bắt giữ một số lãnh đạo về khí hậu và chuyên gia năng lượng với những cáo buộc sai trái của các tổ chức độc lập làm việc về các vấn đề môi trường và năng lượng.

Những áp lực có mục tiêu hướng vào các nhà lãnh đạo khí hậu đã hạn chế sự tham gia có ý nghĩa của xã hội dân sự vào quá trình phát triển và thực hiện JETP. Các vụ bắt giữ và nỗi sợ hãi rộng hơn đã cản trở việc tiếp cận thông tin và sự tham gia của các cộng đồng dễ bị tổn thương. Nếu không có sự tham gia của xã hội dân sự, quá trình chuyển đổi sẽ vẫn diễn ra theo kiểu từ trên xuống, không minh bạch và bị chi phối bởi các nhóm lợi ích.

Có những mối quan ngại khác với JETP của Việt Nam. Ví như phần lớn nguồn tài chính được cung cấp dưới dạng các khoản vay theo lãi suất thị trường, thay vì các khoản tài trợ. Các quốc gia tài trợ công nghiệp hóa và gây ô nhiễm có trách nhiệm đối với gánh nặng tài chính của quá trình chuyển đổi ở các nền kinh tế mới nổi.

Tài trợ chuyển đổi “công bằng” phải dựa trên công lý khí hậu, bao gồm nguyên tắc theo đó người gây ô nhiễm phải trả tiền và bồi thường thiệt hại. Các khoản vay đắt đỏ khiến Việt Nam dễ bị ún sâu hơn vào vòng xoáy nợ nần. Hơn nữa, các cam kết cấp cao về chuyển đất nước khỏi than, kế hoạch thực hiện JETP không bao gồm mốc thời gian cụ thể cho việc loại bỏ than hoặc các cam kết cụ thể về đóng cửa bất kỳ nhà máy điện than nào. Dừng nhà máy điện than cãi Sông Hậu 2 đã gây tranh cãi với lý do lo ngại về tài chính và các nhà máy điện than mới khác vẫn đang trong quá trình triển khai thực hiện.

Các kế hoạch năng lượng của Việt Nam bao gồm những đề xuất mở rộng các lựa chọn năng lượng thải nhiều carbon và phá hủy môi trường liên quan đến chi phí kinh tế, bao gồm sự phụ thuộc vào khí thiên nhiên hóa lỏng nhập khẩu, mở rộng thủy điện và các kế hoạch chưa được kiểm chứng để chuyển đổi các nhà máy than sang đốt sinh khối và amoniac. Những giải pháp sai lầm có nguy cơ chiếm ưu thế so với khoản đầu tư cấp bách để phát triển và tận dụng tiềm năng chưa được khai thác của Việt Nam về năng lượng mặt trời và gió.

Sau cùng, là thời điểm quan trọng đối với Việt Nam, nhưng cũng là đối với chính khái niệm JETP. Ở các quốc gia nhận JETP, xã hội dân sự đã lên tiếng bày tỏ mối quan ngại và kêu gọi một cách tiếp cận có nguyên tắc để tài trợ cho quá trình chuyển đổi công bằng và hành động vì khí hậu. Những đàm phán cấp cao tại Hà Nội về khí hậu và thương mại với người đứng đầu chính sách đối ngoại của EU, được cho là một cơ hội mở ra.

Nếu không có cách tiếp cận có nguyên tắc, JETP không chỉ có nguy cơ gia tăng bất công mà còn gây nguy hiểm cho khả năng thực hiện quá trình chuyển đổi thực sự mang tính chuyển đổi và toàn diện của Việt Nam, vốn cần thiết để giải quyết những thách thức cấp bách về khí hậu.