Sản xuất lúa gạo ít Carbon - Phát triển bền vững của ngành gạo Việt Nam (Bài 1)

Dự án Các Trung tâm đổi mới Sáng tạo Xanh (GIC) tại Việt Nam là một phần của Chương trình toàn cầu “Các Trung tâm Đổi mới Xanh Ngành Nông nghiệp và Thực phẩm” (GIC) thuộc Sáng kiến ​​Một Thế giới - Không còn nạn đói (SEWoH) của Bộ Hợp tác Kinh tế và Phát triển Liên bang Đức (BMZ).

Dự án Các Trung tâm đổi mới Sáng tạo Xanh (GIC) được Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) chính thức phê duyệt triển khai giai đoạn từ 2021 -  2025 trên địa bàn Thành phố Hà Nội, Hồ Chí Minh và 6 tỉnh, thành phố vùng Đồng bằng sông Cửu Long (An Giang, Cần Thơ, Đồng Tháp, Kiên Giang, Hậu Giang và Sóc Trăng- là những vùng trọng điểm trồng lúa gạo và xoài của Việt Nam) gắn với Chương trình sản xuất lúa gạo ít Carbon - Phát triển bền vững của ngành gạo nước ta. Dự án này tập trung tạo điều kiện cho các nông hộ nhỏ, các doanh nghiệp, hợp tác xã trong chuỗi giá trị lúa gạo và xoài để  áp dụng, thúc đẩy và lan tỏa các đổi mới sáng tạo nhằm nâng cao chất lượng nông sản, cải thiện thu nhập của nông dân, tạo việc làm và thúc đẩy bình đẳng giới, đồng thời giảm thiểu các tác động đến biến đổi khí hậu và môi trường của sản xuất nông nghiệp.

dt1a5923-14-37-50-1741055960.jpg

Thu hoạch diện tích thí điểm thực hiện Đề án sản xuất lúa chất lượng cao, phát thải thấp (ít carbon) tại xã Láng Biển, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp. Ảnh: TTXVN

Thách thức lớn - GIC đạt được hầu hết các mục tiêu đề ra

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu đang diễn ra mạnh mẽ, việc chuyển đổi mô hình sản xuất lúa gạo tại Việt Nam sang hướng bền vững và ít phát thải carbon là một nhu cầu cấp thiết. Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), nơi sản xuất hơn 50% sản lượng lúa gạo của cả nước, đang phải đối mặt với hàng loạt thách thức như xâm nhập mặn, suy thoái đất và những thay đổi khó lường của thời tiết. Mới đây, Chính phủ Việt Nam đã đặt mục tiêu phát triển 1 triệu ha lúa chất lượng cao, ít phát thải carbon đến năm 2030, hướng tới một ngành nông nghiệp bền vững và có trách nhiệm với môi trường.

Biến đổi khí hậu không chỉ gây ra những tác động nghiêm trọng lên năng suất lúa mà còn làm gia tăng các hiện tượng thời tiết cực đoan như hạn hán, ngập mặn và xói mòn đất. Trong suốt một thập kỷ qua, tình trạng xâm nhập mặn đã tăng mạnh ở ĐBSCL, làm giảm năng suất lúa trung bình từ 10-15%, ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống và thu nhập của nông dân. Những yếu tố này đã thúc đẩy ngành lúa gạo Việt Nam phải tìm ra những giải pháp canh tác bền vững, giảm phát thải khí nhà kính và đảm bảo nguồn tài nguyên cho thế hệ tương lai.

Gạo ít carbon là kết quả của một hệ thống canh tác lúa áp dụng các phương pháp thân thiện với môi trường như tưới ngập khô xen kẽ, sử dụng giống lúa chịu hạn và giảm thiểu việc sử dụng phân bón hóa học. Những phương pháp này không chỉ giúp giảm phát thải khí nhà kính mà còn tiết kiệm đáng kể lượng nước tưới, một tài nguyên ngày càng khan hiếm tại khu vực ĐBSCL.

Theo nghiên cứu của GIC, việc áp dụng những kỹ thuật này đã giúp giảm phát thải khí metan lên đến 63% và tiết kiệm nước tưới từ 28-30%. Không chỉ giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường, sản xuất gạo ít carbon còn mang lại lợi ích kinh tế rõ rệt. Với phương pháp canh tác thông minh, năng suất lúa có thể tăng từ 5-10%, trong khi chi phí đầu vào lại giảm đáng kể, giúp nông dân cải thiện thu nhập và giảm bớt áp lực chi phí.

dt1-lua-gao-1-1741056136.jpeg

Nông dân thực hành tính toán trong một lớp đào tạo về kinh doanh (Farmer Business School – FBS) tại Cần Thơ

 

Tính đến tháng 12/2024, Dự án đã triển khai các hoạt động về đổi mới sáng tạo với sự tham gia của 24.062 nông dân và 294 Hợp tác xã & Doanh nghiệp vừa và nhỏ (MSMEs) trong cả 2 chuỗi giá trị lúa gạo và xoài tại 6 tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long (An Giang, Cần Thơ, Đồng Tháp, Kiên Giang, Hậu Giang và Sóc Trăng). Nhận thấy những lợi ích mà các đổi mới sáng tạo mang lại như giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận, cải thiện chất lượng sản phẩm và môi trường,… các nhóm hưởng lợi trực tiếp đã tích cực đón nhận các đổi mới này.

Tháng 8 năm 2024, Dự án GIC tại Việt Nam tổ chức đánh giá lại các chỉ số liên quan tới nhóm MSME (chỉ số 4 và chỉ số 5). Cụ thể, nhóm tư vấn độc lập đã tái khảo sát 52 MSMEs tham gia các kỳ khảo sát trước đó (trong đó có 40 MSMEs tham gia cả khảo sát đầu kỳ và cuối kỳ) để đánh giá tác động của Dự án đối với các chỉ số kinh doanh chính và số lượng việc làm tạo mới của các MSMEs này. Kết quả đánh giá cho thấy, 34 MSMEs (trong tổng số 40 MSMEs tham gia cả khảo sát đầu kỳ và cuối kỳ) đã cải thiện ít nhất 3 trên 5 chỉ số kinh doanh chính. Ngoài ra, các MSMEs cũng tạo ra 307 việc làm mới, trong đó có 174 việc làm dành cho nữ lao động (57%), 178 việc làm dành cho thanh niên (58%).

Nhằm nhân rộng tác động tích cực của FBS và góp phần triển khai Quyết định 4880/ QĐ-BNN-KTHT của Bộ NN&PTNT vào ngày 15/11/2023, về Phê duyệt Chương trình đào tạo nghề “Kinh doanh nông nghiệp” trình độ thường xuyên phục vụ đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn, trong năm 2024, Dự án GIC đã tổ chức thêm 3 lớp đào tạo về kinh doanh cho nông dân (Farmer Business School – FBS) cho 90 giảng viên nguồn. Đến cuối năm 2024, Dự án đã đào tạo tổng cộng 358 giảng viên nguồn về FBS (bao gồm 32% nữ giảng viên, 25% giảng viên dưới 35 tuổi). Đây cũng sẽ là nguồn nhân lực góp phần nhân rộng đổi mới sáng tạo sau khi Dự án kết thúc.

Đánh giá về hiệu quả của dự án Trung tâm Đổi mới Sáng tạo Xanh, bà Sonja Esche, Trưởng nhóm nông nghiệp của Tổ chức Hợp tác Phát triển Đức (GIZ) đánh giá, Dự án đã đạt được những kết quả rất ấn tượng và hơn cả những gì chúng tôi mong đợi. Tất cả các bên liên quan đều có thể tự hào về điều này.

Bà Sonja Esche nhấn mạnh hai khía cạnh hai khía cạnh thành công của Dự án. Thứ nhất, Trung tâm Đổi mới Sáng tạo Xanh đã dành rất nhiều nỗ lực để áp dụng cách tiếp cận toàn diện đối với các đổi mới sáng tạo ở cấp độ sản xuất. Điều này bao gồm việc xây dựng và điều chỉnh tài liệu đào tạo, sau đó triển khai phương pháp tập huấn phù hợp. Chẳng hạn, dự án đã tập huấn cho hơn 500 giảng viên nguồn (TOT), từ đó họ đi tập huấn cho nông dân (TOF), giúp hơn 22.000 nông dân tiếp cận các loại công nghệ và thực hành khác nhau. Bà Sonja Esche đánh giá việc dự án GIC có thể tiếp cận và lan tỏa tới nhiều người như vậy thực sự rất đáng chú ý và là một thành tựu nổi bật. Thứ hai, mối liên kết không chỉ tập trung ở cấp độ sản xuất mà còn chú trọng đến khía cạnh kinh doanh và tư duy kinh doanh cho cả nông dân lẫn hợp tác xã. Đây cũng là yếu tố góp phần vào thành công của Trung tâm Đổi mới Sáng tạo Xanh. Trong khía cạnh kinh doanh này, có một phương pháp mà tôi nghĩ không thể không đề cập đến, đó là Lớp học Kinh doanh cho Nông dân (Farmer Business School). Phương pháp này thực sự tập trung vào việc nâng cao tư duy kinh doanh cho nông dân.

Như vậy, Dự án đạt được hầu hết các mục tiêu đề ra, bao gồm nâng cao chất lượng sản phẩm gạo và xoài, góp phần giảm phát thải khí nhà kính, cải thiện khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu của nông dân, hỗ trợ hợp tác xã và doanh nghiệp cải thiện chỉ số kinh doanh và tạo thêm việc làm cho người lao động, trong đó có phụ nữ và thanh niên

Sản xuất 1 triệu ha lúa ít phát thải gắn với chuyển đổi phương thức canh tác ở ĐBSCL

Chính phủ Việt Nam đã đặt mục tiêu phát triển 1 triệu ha lúa chất lượng cao, ít phát thải carbon tại ĐBSCL đến năm 2030, nhằm đáp ứng nhu cầu xuất khẩu gạo sang các thị trường khó tính và nâng cao giá trị gia tăng cho ngành nông sản. Để hiện thực hóa mục tiêu này, nhiều mô hình sản xuất gạo ít carbon đã được triển khai tại các tỉnh như Cần Thơ, Đồng Tháp, Sóc Trăng, Kiên Giang. Các mô hình này không chỉ giúp tăng năng suất mà còn góp phần giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu.

Chính phủ đã ban hành các chương trình, chiến lược như Quyết định số 1490/QĐ-TTg về phát triển 1 triệu ha lúa ít phát thải và Quyết định số 1748/QĐ-TTg về phát triển trồng trọt đến năm 2030. Những chính sách này nhằm khuyến khích sự tham gia của các hợp tác xã, doanh nghiệp nông nghiệp và tổ chức quốc tế trong việc thúc đẩy sản xuất lúa gạo bền vững.

Mặc dù mô hình canh tác lúa ít carbon có nhiều lợi ích, nhưng quá trình chuyển đổi từ phương thức canh tác truyền thống sang mô hình bền vững không phải là điều dễ dàng. Các nông dân còn nhiều e ngại về chi phí đầu tư ban đầu cao và thiếu kiến thức kỹ thuật để áp dụng phương pháp mới. Ngoài ra, việc thay đổi thói quen canh tác đã được duy trì từ lâu cũng gặp phải không ít khó khăn.

Để hỗ trợ nông dân, dự án GIC (Các Trung tâm Đổi mới Sáng tạo Xanh) đã được triển khai tại Việt Nam với sự hỗ trợ từ Chính phủ Đức. Dự án này cung cấp đào tạo cho nông dân về kỹ thuật canh tác bền vững, đồng thời kết nối họ với các doanh nghiệp và hợp tác xã để tạo ra chuỗi giá trị ổn định cho sản phẩm gạo ít carbon.

Các dự án xây dựng hệ thống cống ngăn mặn, đê bao bảo vệ và kênh dẫn nước ở ĐBSCL đã góp phần kiểm soát lũ, giảm thiểu thiệt hại từ biến đổi khí hậu và đảm bảo nguồn nước tưới tiêu cho hàng triệu hecta lúa. Tiêu biểu là hệ thống cống ngăn mặn Cái Lớn - Cái Bé (Kiên Giang), đóng vai trò bảo vệ các vùng canh tác khỏi tình trạng xâm nhập mặn nghiêm trọng, đặc biệt trong mùa khô.

Song song với đó, công tác nghiên cứu và lai tạo giống lúa đã mang lại những bước đột phá đáng kể. Theo ông Đỗ Hà Nam, Phó Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam, hiện nay đa số giống lúa của Việt Nam là các giống lúa chất lượng cao. Các giống lúa như Jasmine, ST24, ST25 không chỉ đạt năng suất cao mà còn đáp ứng tiêu chuẩn gạo ngon nhất thế giới, đưa thương hiệu gạo Việt Nam vươn xa.

Cùng với giống lúa chất lượng, việc áp dụng các công nghệ canh tác tiên tiến như mô hình "3 giảm, 3 tăng" (3 giảm: giảm lượng hạt giống, giảm thuốc bảo vệ thực vật, giảm phân bón; 3 tăng: tăng năng suất lúa, tăng chất lượng gạo, tăng hiệu quả kinh tế) và “1 phải, 5 giảm” (1 phải: phải sử dụng giống lúa xác nhận hoặc nguyên chủng mà ngành nông nghiệp địa phương khuyến cáo đưa vào sản xuất; 5 giảm: giảm lượng hạt giống gieo trồng, giảm lượng phân bón, giảm lượng thuốc bảo vệ thực vật, giảm lượng nước tưới, giảm thất thoát sau thu hoạch), đã giúp nông dân cải thiện hiệu quả sản xuất, giảm chi phí và nâng cao giá trị hạt gạo.

Với những nỗ lực trên, Việt Nam không chỉ đảm bảo an ninh lương thực quốc gia mà còn trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới trong nhiều năm.

Đáng chú ý, năm 2024, xuất khẩu gạo Việt Nam đạt kỷ lục với sản lượng 9, 15 triệu tấn, đạt giá trị 5,8 tỷ USD, tăng 10,6% về lượng và tăng 23% về giá trị so với năm 2023. Giá gạo xuất khẩu bình quân năm 2024 cũng tăng 16,7%. Trong năm 2024, có nhiều thời điểm giá gạo xuất khẩu của Việt Nam vượt qua gạo cùng loại của Thái Lan để đứng ở vị trí cao nhất trong những nước xuất khẩu hàng đầu thế giới. Đây là bước bứt phá vô cùng ấn tượng sau 35 năm kể từ khi Việt Nam bắt đầu xuất khẩu gạo.

Năm 2025, Chính phủ giao chỉ tiêu cho tăng trưởng nông nghiệp là 4%. Với lĩnh vực trồng trọt chiếm khoảng 43% tổng giá trị toàn ngành nông nghiệp, tăng trưởng lĩnh vực này năm cao nhất đạt 2,2% còn thông thường ở mức 1,5-1,8%. Giá gạo xuất khẩu bình quân 2 tháng đầu năm 2025 ước đạt 553,6 USD/tấn, giảm 18,3% so với cùng kỳ năm 2024. Nhưng những ngày đầu tháng 3/2025, giá gạo xuất khẩu bắt đầu nhích lên. Năm ngoái, xuất khẩu gạo đạt con số 9,15 triệu tấn, năm nay dự kiến xuất khẩu gạo khoảng 9 triệu tấn.

Cựu Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Minh Hoan nhấn mạnh mục tiêu đề án chuyển từ tư duy sản xuất lúa gạo sang tư duy kinh tế lúa gạo, gắn với yêu cầu về chất lượng, giảm phát thải, tăng trưởng xanh; góp phần định vị hình ảnh ngành hàng lúa gạo trong bối cảnh biến đổi khí hậu, biến động thị trường và xu thế tiêu dùng xanh trên thế giới. Theo kế hoạch, đến năm nay, 2025, 13 tỉnh thành trong vùng ĐBSCL trồng 180.000 ha lúa phát thải thấp và thí điểm cấp tín chỉ carbon cho vùng đạt chuẩn. Đến 2030, mở rộng thêm 820.000 ha lúa phát thải carbon thấp, mục tiêu bán tín chỉ carbon của ngành lúa gạo 2.500 tỷ đồng/năm… Theo ước tính, đề án sẽ giúp giá trị ngành lúa gạo Việt Nam tăng thêm khoảng 21.000 tỷ đồng/năm so với trước đây, gồm: Giảm chi phí sản xuất lúa gạo (9.500 tỷ đồng/năm); tăng giá bán sản phẩm (7.000 tỷ đồng/năm); bán tín chỉ carbon; tận dụng phế phụ phẩm (2.000 tỷ đồng/năm). Đây là chương trình sản xuất lúa giảm phát thải quy mô lớn nhất thế giới từ trước đến nay.

Tóm lại, việc chuyển đổi mô hình canh tác lúa gạo ít carbon không chỉ giúp bảo vệ môi trường mà còn góp phần nâng cao thu nhập và đời sống của người nông dân. Mục tiêu phát triển 1 triệu ha lúa chất lượng cao, ít phát thải carbon đến năm 2030 là một bước đi quan trọng trong việc hướng đến một ngành nông nghiệp bền vững và có trách nhiệm với môi trường. Với sự hỗ trợ từ Chính phủ, các tổ chức quốc tế và doanh nghiệp, ngành lúa gạo Việt Nam có thể vươn lên để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về gạo bền vững trên thị trường toàn cầu, đồng thời đóng góp tích cực vào công cuộc bảo vệ khí hậu toàn cầu.

V.X.B