TS. Lê Thành Ý: Chính sách hiệu quả, điều kiện cần để trở thành nước có thu nhập cao (kì I)

Hiện thực hóa khát vọng trở thành quốc gia thu nhập cao, Việt Nam đáng chuyển đổi mô hình tăng trưởng và cải thiện năng lực Chính phủ trong phối hợp và triển khai những cải cách  kinh tế.  Báo cáo cập nhật gần đây của Nhóm Ngân hàng Thế giới  đã chỉ ra, mô hình tăng trưởng truyền thống của Việt Nam đang đối mặt với những thách thức do đại dịch Covid-19, toàn cầu hóa  và nguy cơ dễ bị tổn thương trứơc những cú sốc bên ngoài, đặc biệt là rủi ro khí hậu. Sau khi phân tích chính sách ứng phó và những ưu tiên cải cách, báo cáo cho rằng, thể chế thích ứng sẽ là chìa khóa để đảm bảo thành công.

Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới(W,B) tại Việt Nam Carolyn Turk, nhận xét  GDP theo đầu người của Việt Nam đã tăng gấp năm lần sau ba thập kỷ, trong khi thể chế  quốc gia vẫm chưa thích ứng với tốc độ thay đổi kể từ thời kỳ Đổi mới vào cuối thập niên 1980,” theo  “Cải cách thể chế đồng bộ có thể giúp tránh bẫy thu nhập trung bình, nâng cao hiệu quả ứng phó với những thách thức phức tạp phát sinh trong nước và trên toàn cầu.”(W.B 2022)

y1-1657346012.jpg
 

Việt Nam đã thực thi ưu tiên phát triển. Đất nước đạt kết quả vượt kỳ vọng trong mở cửa thương mại và hòa nhập xã hội, nhưng chưa đạt mong muốn đẩy mạnh tăng trưởng xanh và nâng cấp cơ sở hạ tầng. Thích ứng và hiện đại hóa thể chế là ưu tiên được đề ra trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XIII vào tháng 02 năm 2021(Đảng Cộng sản Việt Nam 2021).  

Theo Ngân hàng Thế giới, Việt Nam đã chuyển đổi thành công từ nền kinh tế khép kín thành một trong những nền kinh tế mở cửa nhất thế giới trong giai đoạn 1990- 2000. Tuy nhiên, lộ trình từ quốc gia thu nhập trung bình thấp sang trung bình cao còn nhiều thách thức.Thông qua cải cách thể chế, Việt Nam đã tạo nền tảng cho tầm nhìn phát triển nhưng vẫn cần  tăng cường hơn nữa năng lực thực hiện chiến lược quốc gia và động lực tăng trưởng xanh; chuyển đổi số, tài chính toàn diện, an sinh xã hội và nâng cấp cơ sở hạ tầng để hoàn thành mục tiêu phát triển.

Bài viết đề cập đến một số khía cạnh từ khủng hoảng Covid-19 đến ưu tiên phát triển trong thời gian tới.

Khát vọng trở thành quốc gia có thu nhập cao

Khát vọng phát triển trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045 của Việt Nam không hề thay đổi, nhưng con đường đạt đến đã có những đổi thay. Việt Nam dần trở nên giàu có với khu vực tư nhân trong nước lớn mạnh; tốc độ đô thị hóa nhanh; môi trường trở nên ô nhiễm và kém bền vững. Về mặt xã hội, người dânViệt hiện sống khỏe mạnh, có học thức và sinh ít con hơn.  Với tốc độ tăng dần, thể chế phát triển theo hướng phụ thuộc nhiều vào cơ chế thị trường; nhà nước pháp quyền, khả năng giám sát và phản biện của các cơ quan lập pháp ở cấp quốc gia và các địa phương ngày càng mạnh mẽ. Thay đổi về kinh tế, xã hội và thể chế được ghi nhận trong những nghiên cứu gần đây, đặc biệt là Báo cáo Việt Nam 2035. Đối thoại chính sách tạo sự đồng thuận về ưu tiên phát triển; gần đây, đồng thuận này chịu những thách thức bởi đại dịch Covid-19 với những yếu tố làm chậm quá trình toàn cầu hóa và mức độ dễ bị tổn thương trước các cú sốc bên ngoài (Ngân hàng thế giới 2022).

Các nhà phân tích nhận xét, đã có thách thức đáng kể đối với mô hình tăng trưởng ở Việt nam; những thách thức tồn này đọng từ nhiều năm trước ; chưa  thể giải quyết được ngay những vấn đề phức hợp, xuyên suốt cả quá trình phát triển như biến đổi khí hậu (BĐKH) hoặc hỗ trợ cho xã hội có thu nhập cao, được giới nghiên cứu dự báo mang tính đương đại và sẽ định hướng lại ưu tiên phát triển để đạt được khát vọng đặt ra. 

2 Khủng hoảng Covid-19 và ưu tiên phát triển

Đại dịch Covid-19 là cú sốc lớn trong nhiều thập kỷ; Thế giới chẳng những mất đi hàng triệu mạng sống, mà còn bước vào một cuộc suy thoái chưa từng có. Theo nhiều dự báo, quá trình hồi phục kinh tế sẽ không đồng đều và còn để lại những vết sẹo khó lành đối với không ít quốc gia.  Dù khó dự đoán, nhưng lịch sử cho thấy, kinh tế thế giới sẽ đổi khác sau những khủng hoảng, buộc Chính phủ nhiều nước phải điều chỉnh lại ưu tiên của mình. Đại dịch trong xu thế toàn cầu chậm lại và BĐKH là những thách thức rất lớn đối với Việt Nam.

Trước đại dịch, Việt Nam định hình tương đối rõ mục tiêu trở thành nước thu nhập cao. Tuy nhiên, ưu tiên này đã bị thay đổi bởi cường độ đại dịch và những thay đổi trong nền kinh tế toàn cầu. Việt Nam đã chứng tỏ khả năng chống chịu ngoạn mục với đại dịch, nhưng nhiều doanh nghiệp đã bị ảnh hưởng nặng nề và Chính phủ đã phải thay đổi chỉnh chính sách hỗ trợ hoặc điều chỉnh lại những ưu tiên phát triển. Mặc dù không thay đổi lớn, song Việt Nam đã phải định hướng cho phù hợp với phát triển bao trùm, xanh hơn và thân thiện với kỹ thuật số sau đại dịch

3 .Chuyển đổi sang mô hình kinh tế mới

Việt Nam là một minh chứng thành công phát triển.  Ngay từ năm 2010, lãnh đạo nhà nước đã nhận ra cần phải thay đổi mô hình tăng trưởng. Những động lực truyền thống như tích lũy vốn hiện vật, lợi thế về dân số và mở rộng sản xuất với những ngành công nghiệp thâm dụng lao động đã dần cạn kiệt. Việt Nam thừa nhận để tăng trưởng, cần xét đến tầng lớp trung lưu đang mở rộng với ước tính lên tới 50% dân số vào năm 2035.

Trong giai đoạn 2016 - 2020, về kinh tế xã hội đã có ba báo cáo lớn  được xuất bản đó là Đánh giá Quốc gia, Việt Nam 2035 và Việt Nam Năng động. Năm 2020, Chính phủ xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2021-2030, được Đại hội XIII Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức thông qua. Thông điệp chung của những báo cáo nêu rõ, Việt Nam cần chuyển sang mô hình tăng trưởng hướng tới chất lượng và hiệu quả tốt hơn.

Kinh nghiệm cho thấy, con đường phát triển từ quốc gia thu nhập thấp trở thành nước có thu nhập trung bình diễn ra thông qua tích lũy vốn vật chất và vốn con người kết hợp cùng thâm dụng tài nguyên; nhưng chuyển đổi từ quốc gia thu nhập trung bình sang thu nhập cao thường lại được thúc đẩy bằng sử dụng hiệu quả tài nguyên kết hợp với tài sản hình thành và quan trọng là nguồn nhân lực. Nâng cao hiệu quả giúp tạo năng suất cần thiết để cải thiện chất lượng với nhu cầu ngày càng phức tạp hơn.

Liên quan đến vốn con người, hiệu quả sẽ được nâng cao nhờ loại bỏ được những rào cản gia nhập thị trường hoặc bị phân biệt đối xử hay hạn chế tiếp cận thông tin..Việt Nam đã đạt thành tích cao về giáo dục phổ thông, nhưng giáo dục đại học, đào tạo kỹ năng, kỹ thuật nghề nghiệp và các chính sách bảo trợ xã hội còn kém phát triển. Việc nâng cao hiệu quả vốn tự nhiên đòi hỏi phải cải thiện đáng kể cả về tính bền vững và khả năng chống chịu vì đất nước còn tụt hậu so với nhiều nước có cùng trình độ phát triển.

Phát triển bền vững liên quan đến thâm dụng tài nguyên thiên nhiên, để chuyển từ tăng trưởng ngắn hạn sang sử dụng hiệu quả hơn đòi hỏi phải chuyển đổi  sang nền kinh tế carbon thấp, tạo cơ hội quản lý tài nguyên hiệu quả, kiểm soát ô nhiễm môi trường nghiêm ngặt và chuẩn bị đối phó hiệu quả với tác động của BĐKH; phát triển đồng thời với đầu tư ngày càng nhiều hơn vào vốn sản xuất, cơ sở hạ tầng và “vốn vô hình” như kỹ năng con người, giáo dục đào tạo, thể chế và đổi mới sáng tạo công nghệ.

4.Tác động của Covid-19 và những xu hướng toàn cầu 

Đại dịch Covid-19 bùng phát ở Việt Nam đầu năm 2020, Chính phủ đã phản ứng bằng thành lập ngay Ban Chỉ đạo phòng chống quốc gia (tháng 1 năm 2020) để điều phối những nỗ lực quản lý dịch bệnh; tháng 4 năm 2020, chỉ thị cách ly toàn xã hội được ban hành. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều làn sóng tiếp theo vào tháng 8/2020 và tháng 1,2 năm 2021. Làn sóng thứ tư với biến chủng Delta bắt đầu từ cuối tháng 4 năm 2021, buộc Chính phủ phải đẩy nhanh tốc độ tiêm chủng mở rộng.

Mặc dù khả năng chống chịu bền bỉ, nhưng nền kinh tế việt Nam đã bị tác động đáng kể bởi những biện pháp hạn chế nhằm kiểm soát các đợt dịch bệnh trong bối cảnh tiêm chủng còn thấp. Do tác động cả ở trong và ngoài nước, tăng trưởng cả nước quý 3 năm 2021 âm tới 6,17% và ngành công nghiệp đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi việc đóng cửa nhiều khu công nghiệp,

Về đối ngoại, cán cân thương mại hàng hóa suy yếu do doanh số xuất khẩu giảm mạnh và nhập khẩu bị hạn chế. Tuy nhiên, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI) cam kết vẫn đạt 14 tỷ  USD trong 8 tháng đầu năm 2021, điều này cũng phản ánh lòng tin của nhà đầu tư vào triển vọng kinh tế Việt Nam trong trung và dài hạn.

Đại dịch Covid-19 ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống của người lao động, doanh nghiệp và các hộ gia đình. Theo ước tính của Chính phủ, việc làm bị ảnh hưởng lên tới 28 triệu trong quý III năm 2021(khoảng 40 % lực lượng lao động) với dịch vụ là ngành bị tác động mạnh nhất. Sự kết hợp của tình trạng thất nghiệp gia tăng và giảm lương dẫn đến thu nhập trung bình của người lao động giảm tới 44 % từ tháng 6 đến tháng 9 năm 2021.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) nới lỏng chính sách tiền tệ hỗ trợ kinh tế,  đã cung cấp nguồn thanh khoản cần thiết cho các doanh nghiệp bị ảnh hưởng .Tuy nhiên, việc làm  này lại dẫn đến gia tăng nợ xấu (NPLs) trong bối cảnh hệ thống ngân hàng thiếu vốn.

Với tác động của dịch bệnh bùng phát, ngành bán lẻ và sản xuất công nghiệp, doanh nghiệp và khu vực tư nhân đều gặp nhiều khó khăn trong duy trì khả năng thanh toán, Chính phủ đã  phải trở lại chính sách tài khóa trung lập. Trong sáu tháng đầu năm, ngân sách đạt thặng dư chủ yếu là do chậm giải ngân vốn đầu tư công và những gói tài chính hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp và cá nhân có quy mô nhỏ  (khoảng 1% GDP) và  cũng chỉ giải ngân được 40% số  đối tượng cần hỗ trợ.

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vận hành tiền tệ theo hướng thận trọng để cân bằng giữa mục tiêu hỗ trợ tăng trưởng và kiểm soát lạm phát, đồng thời với theo dõi sức khỏe khu vực tài chính. Chính sách tài khóa, được củng cố theo hướng thắt chặt để đảm bảo bền vững nợ.  Chính phủ đã cải thiện thu ngân sách và hiệu quả chi tiêu nhất là đầu tư công. Do quy mô và thời gian của đại dịch khó đoán định nên dự báo tăng trưởng đã được xem xét một cách  thận trọng,

Tác động của đại dịch Covid-19 đối với thị trường lao động và hộ gia đình càng thêm trầm trọng bởi những đợt dịch bùng phát. Dịch bệnh không chỉ làm giảm thu nhập của người lao động mà còn làm bất bình đằng trở nên sâu sắc, do tác động không đều trong các nhóm thu nhập và ở nhiều địa điểm khác nhau. Di cư với số lớn người ra khỏi các vùng dịch bệnh gây thiếu hụt lao động khi nền kinh tế phục hồi. Để đảm bảo nạn nhân tránh được những cú sốc thiên tai hoặc kinh tế và hỗ trợ phù hợp với nhu cầu, đòi hỏi các cấp chính quyền phải cân nhắc phạm vi bao phủ, xác định đối tượng và mức chi bảo trợ xã hội phù hợp.

Mặc dù tín dụng ngân hàng hoặc tái cơ cấu nợ đã cung cấp vùng đệm cho các doanh nghiệp, nhưng việc làm này cũng chỉ góp phần chuyển rủi ro từ khu vực kinh tế thực sang khu vực tài chính. Điều cần là các cơ quan thực thi chính sách phải thận trọng trước những rủi ro liên quan đến nợ xấu gia tăng, đặc biệt là ở những ngân hàng thiếu vốn.

Kinh nghiệm cho thấy, tình hình tài khóa có thể xấu đi nhanh nếu dịch bệnh bùng phát không được kiểm soát và Chính phủ phải mở rộng gói hỗ trợ tài chính trong khi nguồn thu bị ảnh hưởng bởi kinh tế phục hồi yếu hơn. Với tỷ lệ nợ công/ GDP cuối năm 2020 khoảng 56,9%, Chính phủ Việt nam vẫn còn dư địa tài chính, rủi ro tài khóa còn trong tầm kiểm soát nhưng vẫn cần theo dõi vì nó liên quan đến sức khỏe tài chính doanh nghiệp  và có thể dẫn đến những khoản nợ tiềm tàng.

Đại dịch toàn cầu đang diễn ra và tương lai còn nhiều bất định, những cú sốc thay đổi sẽ ảnh hưởng đến nhiều thế hệ tương lai; điều khó tránh là tăng tốc của xu hướng toàn cầu sẽ ảnh hưởng đến  các chương trình nghị sự của Việt Nam.

Thương mại và hệ thống tài chính toàn cầu bị chao đảo do những biện pháp hạn chế di chuyển và phòng chống dịch bệnh đi ngược với bản chất của toàn cầu hóa. Nhiều Chính phủ và các công ty đa quốc gia ghi nhận, họ bị phụ thuộc vào số ít nhà cung cấp và một số quốc gia cung ứng sản phẩm thiết yếu. Nhận thức này có thể dẫn đến thay đổi chuỗi giá trị toàn cầu và giảm dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Tuy tác động đến thương mại hàng hóa không lớn như dự kiến                                                                                                        (xuất khẩu giảm tới 10% trong năm 2020, nhưng đầu năm 2021 lại có chiều hướng gia tăng). Tuy nhiên, đóng cửa biên giới quốc tế gần như đã ngăn chặn sự di chuyển của con người trên khắp hành tinh và dẫn đến những thay đổi lớn trong ngành vận tải và du lịch.

Giãn cách xã hội đã khuyến khích phát triển kinh tế không tiếp xúc trong thương mại và cung cấp dịch vụ cá nhân như học, khám chữa bệnh trực tuyến, làm việc tại nhà và giao dịch điện tử. Xu hướng này xuất hiện từ trước đại dịch và đã tăng tốc trong những năm qua. Điều này thể hiện rõ qua thương mại trực tuyến (5 tháng cuối năm 2020  giá trị tăng đạt tương đương với mức tăng của cả 5 năm trước đó) và người dân đã tăng cường sử dụng mạng xã hội. Tất cả những thay đổi đều có hậu quả rõ ràng về kinh tế và tài chính, làm thay đổi sâu sắc cách sống, kinh doanh, giao tiếp, làm việc và học tập của mọi tầng lớp người trong xã hội.

Đại dịch đã nhấn mạnh sự mong manh của cuộc sống khi phải đối mặt với những cú sốc ngoại sinh, khiến con người phải cải thiện khả năng chống chịu với cả đại dịch và BĐKH. Tác động của đại dịch đối với môi trường mang tính hai mặt. Một phía, phát thải khí nhà kính giảm bớt do hoạt động di chuyển giảm; nhưng mặt khác, các nhà hoạch định chính sách lại giảm mức độ cam kết ban hành công cụ định giá carbon hoặc đầu tư xanh hơn, vì những hoạt động này làm gia tăng gánh nặng chi phí đối với người tiêu dùng.

 Ở giai đoạn hiện nay, rủi ro tài khóa dường như trong tầm kiểm soát nhưng các quốc gia đều phải theo dõi chặt chẽ, vì nó liên quan đến sức khỏe tài chính doanh nghiệp và có thể dẫn đến những khoản nợ tiềm tàng. Thay đổi ở tầm thế giới làm trầm trọng thêm tác động tiêu cực của đại dịch. Cho dù tác động đang diễn ra,song trong tương lai đại dịch còn nhiều bất định với những thay đổi sẽ ảnh hưởng đến các thế hệ dời sau.