Thông cáo báo chí của Ngân hàng Thế giới(W.B) phát đi từ Hà Nôi ngày 8 tháng 8 năm 2022 cho biết, tăng trưởng GDP của Việt Nam được dự báo tăng từ 2,6% năm 2021 lên 7,5% trong năm 2022, còn lạm phát được kỳ vọng giữ ở mức 3,8% trong năm nay. Mở đầu báo cáo Điểm lại tháng 8 năm 2022, một baó cập nhât định kỳ 6 tháng của W.B, các nhà phân tích nhấn mạnh, sau hai năm khủng hoảng COVID-19, những cú sốc kinh tế mới làm gia tăng bất định và phủ bóng đen lên nền kinh tế toàn cầu; các biện pháp kiểm soát đại dịch khiến tăng trưởng yếu đi; quá trình phục hồi chậm lại và dấy lên mối quan ngại lạm phát;các chuỗi giá trị bị gián đoạn và tăng trưởng toàn cầu chỉ đạt 2,9% trong năm 2022.
Trong bối cảnh các đối tác thương mại lớn đều bị tác động bởi những cú sốc; kinh tế Hoa Kỳ và khu vực đồng tiền chung châu Âu( Euro) chỉ đạt mức tăng 2,5% còn Trung Quốc dự kiến tăng trưởng 4,3% trong năm. Cùng với đà tăng trưởng giảm, lạm phát đã tăng trên 7% ở cả những nền kinh tế phát triển, đang phát triển và thị trường mới nổi (EMDE),với hơn 75% số quốc gia đã vượt chỉ tiêu lạm phát.
Mặc dù những cú sốc và tình trạng bất định gia tăng, song nền kinh tế Việt Nam vẫn phục hồi tốt; sau thời gian bị tổn thương đã lấy lại được đà tăng trưởng. Giãn cách xã hội nghiêm ngặt làm GDP sụt giảm mạnh trong quý III. 2021; nhờ tiêm chủng vắc-xin tăng cao và quốc gia mở cửa trở lại, nền kinh tế đã phục hồi từ mùa thu 2021. Cuối năm 2021, 80% dân số đã được tiêm vácxin đầy đủ, các biện pháp hạn chế đi lại dần được gỡ bỏ. Nhờ vậy, nền kinh tế phục hồi nhanh chóng, tăng trưởng với tốc độ 5,2% trong quý IV/2021, 5,1% trong quý I/2022 7,7% trong quý II/2022 và dược dự báo cả năm 2022 sẽ tăng 7,5%.
Thực trạng kinh tế việt Nam trong đại dịch Covid-19
Cải cách kinh tế làm thay đổi diện mạo kinh tế Việt Nam
Quá trình phục hồi kinh tế Việt Nam diễn ra nhanh chóng, nhưng chưa đồng đều với tổng sản lượng vẫn thấp hơn trước Covid-19 đến 3,8%, riêng ngành dịch vụ thấp hơn đến 5,7% . Các doanh nghiệp đang phục hồi nhưng còn yếu khi nền kinh tế mở cửa trở lại. Theo nhận xét của nhiều doanh nghiệp, sản xuất kinh doanh được khôi phục, nhưng phải có thêm thời gian mới phục hồi hoàn toàn. Khảo sát do Ngân hàng Thế giới thực hiện từ tháng 1 đến tháng 3/2022 cho thấy, 92,6% doanh nghiệp trong khu vực chính thức đã trở lại hoạt động với 20% số doanh nghiệp có tuyển lao động mới trong quý I/2022. Tuy nhiên, số doanh nghiệp phải đối mặt với thách thức còn nhiều. Từ tháng 01 đến tháng 03/2022, chỉ có 44% số doanh nghiệp giữ nguyên hoặc có hoat động tốt hơn một chút so với trước đại dịch, trong khi 56% lại có doanh số bị giảm sút so với cùng kỳ.
Mặc dù thị trường lao động được hồi phục và thu nhập gia tăng, nhưng sốc COVID-19 còn kéo dài. Tỷ lệ lao động có việc làm trở về mức trước đại dịch, số tham gia vào thị trường lao động tăng lên 68,5%, nhưng vẫn thấp hơn các mức trước đại dịch là 71,3% (Q4/2019). Thu nhập bình quân của hộ gia đình tăng 5,8% trong Q2/2022, nhưng nhiều hộ vẫn tiếp tục cảm nhận rõ hiệu ứng của sốc COVID-19 với 24,7% số hộ gia đình ở thành thị cho biết thu nhập của họ thấp hơn so với cùng kỳ năm trước
Trong nền kinh tế, đối ngoại vẫn là khu vực thể hiện khả năng sức chống chịu. Mặc dù cán cân vãng lai xấu đi, song vị thế của kinh tế đối ngoại vẫn được duy trì vững chắc nhờ giải ngân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) gia tăng. Do giá năng lượng và hàng hóa trung gian tăng cao, tài khoản vãng lai trong Q1năm 2022 đã thâm hụt 1,5 tỷ USD tương đương 1,7% GDP. Song nhờ giải ngân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng 10 tỷ USD trong nửa đầu năm 2022 nên tỷ giá hối đoái danh nghĩa của đồng tiền Việt Nam so với Đô la Mỹ giữ tương đối ổn định và tăng giá so với đồng tiền của các đối tác thương mại khác, bao gồm cả đồng EURO và Nhân dân tệ.
Khu vực tài chính và ngân hàng phải đối mặt với rủi ro gia tăng, chính sách tiền tệ nới lỏng đã góp phần đảm bảo thanh khoản và duy trì tăng trưởng tín dụng ở mức cao; tổng cung tiền tăng cao hơn so với tốc độ tăng trưởng GDP danh nghĩa. Mặc dù lạm phát toàn phần tăng lên, nhưng Ngân hàng nhà nước (NHNN) vẫn giữ nguyên lãi suất chính sách. Tỷ lệ nợ xấu được duy trì ở mức 1,53% trong quý I năm 2022, các biện pháp cơ cấu lại thời gian trả nợ được kết thúc vào tháng 06 năm 2022 có thể minh chứng về chất lượng tài sản. Tỷ lệ an toàn vốn trên toàn hệ thống ở mức 11,5% trong Q1năm 2022, cao hơn so với yêu cầu quản lý nhà nước (9%), Tuy nhiên, vốn mỏng và tỷ lệ dự phòng khác nhau ở các ngân hàng là một vấn đề đáng quan ngại khi các ngân hàng phải duy trì tỷ lệ nợ xấu cao hơn.Mặt khác, chất lượng vốn vay đối với tín dụng tiêu dùng xấu đi (chiếm khoảng 12,5% tổng tín dụng năm 2021) đã đẩy tỷ lệ nợ xấu tăng từ 5,5% lên 9,4% trong năm 2021.
Giá cả hàng hóa, nhất là giá năng lượng tăng cao đã đẩy lạm phát gia tăng. Lạm phát tính theo chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đã từ 1,8% trong tháng 12/2021 tăng lên 3,4% trong tháng 6/2022, nhưng vẫn dưới mục tiêu 4% của NHNN. Lạm phát tăng có thể do sốc về cung; trong tháng 6 năm 2022, giá xăng dầu tăng 61,2% làm tăng 1,4% giá vận tải, đóng góp tới 1,9% vào lạm phát CPI. Mặc dù giá lương thực, thực phẩm và lạm phát cơ bản tăng nhẹ với tỷ lệ 2,3% và 2,0% trong tháng 6/2022; nhưng do giá nguyên vật liệu đầu vào tăng cao, chỉ số giá sản xuất ngành công nghiệp chế tạo, chế biến đã tăng bình quân 4,1% .
Chính sách tài khóa theo hướng thu hẹp trong 6 tháng đầu năm, giúp Chính phủ đạt bội thu 9,6 tỷ USD (thu NSNN đạt 66,1% trong khi chi NSNN đạt 40% dự toán). Nhờ bội thu NSNN, quy mô vay nợ của Chính phủ tương đối hạn chế. Tỷ lệ nợ công và nợ được khu vực công bảo lãnh so với GDP giảm xuống 43,1% trong năm 2021, thấp hơn so với trần nợ công 60% GDP trong Chiến lược nợ công giai đoạn 2021-2030. Nền kinh tế vĩ mô Việt Nam có triển vọng tích cực, nhưng rủi ro đang đòi hỏi các cấp có thẩm quyền phải có những biện pháp chính sách để chủ động ứng phó.
Mặc dù môi trường toàn cầu có nhiều thách thức, nhưng triển vọng vĩ mô của nền kinh tế Việt Nam vẫn thuận lợi . Nhờ hiệu ứng xuất phát điểm thấp, GDP dự kiến sẽ tăng trưởng 7,5% trong năm 2022 và 6,7% trong năm 2023, khi các hoạt động kinh tế tiếp tục quay lại trạng thái bình thường.
Triển vọng tăng trưởng vĩ mô dưới góc nhìn nghiên cứu
Mặc dù tăng trưởng mạnh, song nền kinh tế vẫn chưa thể quay về mức tiềm năng trong năm 2022. Động động lực tăng trưởng dự kiến sẽ hướng từ dựa vào nhu cầu bên ngoài chuyển sang dựa vào nhu cầu trong nước và từ khu vực chế tạo chế biến sang khu vực dịch vụ.
Quá trình phục hồi của khu vực dịch vụ sẽ được đẩy mạnh do người tiêu dùng trong nước tăng chi tiêu để thỏa mãi các nhu cầu bị dồn nén và số lượt khách du lịch quốc tế đang được phục hồi. Ngược lại, sản xuất công nghiệp có thể sẽ bị chững lại do sức cầu bên ngoài yếu đi. Lạm phát được dự báo tăng đến 4% trong năm 2023, trước khi chững lại ở mức 3,3% khi các cú sốc về cung tiêu tan. Về kinh tế đối ngoại, tài khoản vãng lai dự kiến quay lại mức thặng dư nhỏ (khoảng 0,2 - 0,6% GDP) nhờ xuất khẩu hàng hóa đứng vững, du lịch quốc tế phục hồi và nguồn kiều hối dồi dào.
Nhìn từ bên ngoài, mặc dù quá trình bình thường hóa đang diễn ra và hầu hết các quốc gia đều đang gỡ bỏ hạn chế liên quan đến COVID-19, nhưng biến chủng mới xuất hiện cùng với sự gián đoạn của hoạt động kinh tế vẫn là những rủi ro trong khi áp lực lạm phát dai dẳng và triển vọng thắt chặt tiền tệ mạnh hơn, có thể làm suy giảm tăng trưởng vào thời điểm các hoạt động đang chững lại. Ngoài ra, căng thẳng và xung đột địa chính trị gia tăng cũng làm tăng bất định có thể dẫn đến chuyển đổi cơ cấu dài hạn trong nền kinh tế toàn cầu.
Nhìn từ trong nước, những rủi ro liên quan đến đại dịch COVID-19 có thể ảnh hưởng đến quá trình phục hồi, nhất là trong các lĩnh vực dịch vụ.. Thiếu hụt lao động có thể ảnh hưởng đến khả năng phục hồi đầy đủ. Ngoài ra, rủi ro tài chính có thể gia tăng
Đánh giá tác động tới doanh nghiệp của Ngân hàng Thế giới, thực hiện từ tháng 01 đến tháng 3 năm 2022, cho thấy, 30% số doanh nghiệp xuất khẩu tiếp tục bị ảnh hưởng do gián đoạn chuỗi giá trị toàn cầu. Trong giai đoạn từ tháng 12/2021 đến tháng 02/2022, do thiếu đầu vào, cân đối tài sản của khu vực doanh nghiệp, ngân hàng và hộ gia đình đã ảnh hưởng đến quá trình phục hồi đầu tư và tiêu dùng trong nước; rủi ro lạm phát cũng là vấn đề đang nổi. Mặc dù lạm phát do các yếu tố cung bên ngoài, nhưng giá cả gia tăng liên tục có thể đẩy tăng cao, gây xáo trộn về mức lương danh nghĩa và chi phí sản xuất.
Nhìn từ góc độ cầu, nhu cầu trong nước gia tăng khi tiêu dùng phục hồi có thể làm tăng áp lực lên giá cả. Lạm phát kéo dài và cao hơn dự kiến có thể làm suy giảm quá trình phục hồi, nhất là về đầu tư và tiêu dùng tư nhân. Trong bối cảnh này, các nhà hoạch định chính sách phải đối mặt với nhiệm vụ khó khăn là cân bằng giữa nhu cầu hỗ trợ để củng cố quá trình phục hồi với nhu cầu kiềm chế lạm phát và rủi ro tài chính phát sinh. Bất định gia tăng đồng nghĩa với chính sách phải tiếp tục thích ứng với nhịp độ phục hồi, nhưng phải thận trọng trước những rủi ro tài chính.
Cho dù có dư địa tài khóa để thực hiện, nhưng thách thức lại nằm ở những yếu kém trong triển khai. Cách xử lý ách tắc về thể chế khiến chương trình đầu tư công liên tục không đạt kế hoạch. Trong ngắn hạn, để đẩy mạnh quá trình phục hồi nhu cầu, đồng thời với nâng cao tốc độ tăng trưởng tiềm năng dài hạn, cần mở rộng mạng lưới an sinh xã hội. Rủi ro lạm phát gia tăng đòi hỏi phải có chính sách tiền tệ linh hoạt. Tuy nhiên, nếu rủi ro lạm phát trở thành hiện thực, NHNN cần sẵn sàng chuyển sang thắt chặt tiền tệ để kìm áp lực lạm phát bằng cách tăng lãi suất và thắt lại cung tiền.
Trong trung hạn, những cải cách nhằm tăng cường khung chính sách tiền tệ của NHNNcó thể theo hướng áp dụng chỉ tiêu lạm phát để nâng cao hiệu quả và tác động truyền dẫn của chính sách tiền tệ. Các bước liên quan có thể bao gồm mở rộng các công cụ hiện có để quản lý thanh khoản cũng như tăng cường các biện pháp an toàn vĩ mô. Rủi ro tài chính phát sinh cũng cần được chủ động quản lý để nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống ngân hàng.
Cơ chế xử lý tình trạng mất khả năng trả nợ của doanh nghiệp và cơ chế xử lý trong khu vực ngân hàng giữ vai trò quan trọng để xử lý tình trạng mất khả năng trả nợ. Điều quan trọng là tăng cường cải cách cơ cấu nhằm hỗ trợ tăng trưởng trung hạn, giúp nền kinh tế phát triển bao trùm với khả năng chống chịu cao hơn. Cải cách tài khóa tập trung vào ổn định huy động thu thông qua cải cách chính sách thuế và nâng cao hiệu suất chi tiêu nhằm mở rộng dư địa tài khóa cho các mục tiêu xã hội, khí hậu và các mục tiêu phát triển. Mặc dù những nỗ lực nhằm tăng cường môi trường kinh doanh là cần thiết để tạo việc làm, nhưng theo giới phân tích.các nhà hoạch định chính sách cần tiến hành những bước đi nhằm giảm chênh lệch về kỹ năng và cải thiện chất lượng lực lượng lao động.
Cho dù Việt Nam có dư địa tài khóa để thực hiện, nhưng thách thức lại nằm ở những yếu kém trong triển khai. Cách xử lý những ách tắc về thể chế khiến chương trình đầu tư công liên tục không đạt kế hoạch. Trong ngắn hạn, trọng tâm là thực hiện đầy đủ chương trình hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế thông qua đẩy mạnh triển khai các dự án. Chương trình phục hồi dự kiến đẩy mạnh đầu tư vào hạ tầng cơ sở vật chất và công nghệ số giúp đẩy mạnh quá trình phục hồi nhu cầu ngắn hạn, đồng thời nâng cao tốc độ tăng trưởng tiềm năng trong dài hạn.
Mở rộng mạng lưới an sinh xã hội không chỉ giúp các hộ nghèo và dễ bị tổn thương chống đỡ với tác động của những cú sốc giá nhiên liệu và lạm phát gia tăng mà còn tác động đến tiêu dùng cá nhân. Rủi ro lạm phát gia tăng đòi hỏi phải có chính sách tiền tệ linh hoạt. Tuy nhiên, nếu rủi ro lạm phát trở thành hiện thực,NHNN cần sẵn sàng chuyển sang thắt chặt tiền tệ để kìm lạm phát bằng tăng lãi suất và thắt lại cung tiền. Kết hợp các biện pháp truyền thông rõ ràng và mang tính dự báo về quyết định chính sách tiền tệ là cách định hướng cho các thành viên thị trường, đồng thời đảm bảo neo giữ được kỳ vọng lạm phát.
Trong trung hạn, cải cách căn bản nhằm tăng cường khung chính sách tiền tệ của NHNN theo hướng áp dụng chỉ tiêu lạm phát là cách để nâng cao hiệu quả và tác động truyền dẫn của chính sách tiền tệ. Các bước liên quan có thể bao gồm mở rộng các công cụ hiện có để quản lý thanh khoản cũng như tăng cường sức chống chịu của hệ thống ngân hàng. Các biện pháp tái cơ cấu thời gian trả nợ được kết thúc vào cuối tháng 06/2022 là bước đi quan trọng để tạo điều kiện hạch toán tốt vốn vay bị suy giảm giá trị
Các ngân hàng cần được xây dựng kế hoạch bổ sung vốn cụ thể và có thời hạn. Cơ chế xử lý tình trạng mất khả năng trả nợ và ngân hàng hiệu quả có vai trò quan trọng trong tình trạng mất khả năng trả nợ. Bên cạnh đó, điều quan trọng là tăng cường cải cách cơ cấu nhằm hỗ trợ cho tiềm năng tăng trưởng trung hạn, giúp nền kinh tế phát triển bao trùm với khả năng chống chịu cao hơn.
Cải cách tài khóa cần tập trung vào ổn định huy động nguồn thu thông qua cải cách chính sách thuế và nâng cao hiệu suất chi tiêu để mở rộng dư địa tài khóa cho các mục tiêu xã hội và khí hậu. Khuyến khích đầu tư công và đầu tư tư nhân cho thích ứng khí hậu là cách giúp nền kinh tế nâng cao khả năng chống chịu. Song song với đó là chính sách hướng tới mục tiêu trung hòa các-bon, bao gồm cả phát triển năng lượng tái tạo và định giá các-bon.Qua đó, có thể nâng cao năng lực cạnh tranh trên các thị trường công nghệ và sản phẩm xanh đang phát triển.
Mặc dù những nỗ lực nhằm tăng cường môi trường kinh doanh là cần thiết để tạo việc làm, nhưng các nhà hoạch định chính sách cũng nên tiến hành các bước đi nhằm giảm chênh lệch về kỹ năng và cải thiện chất lượng lực lượng lao động trong tương lai.
Thay lời kết luận.
Báo cáo Điểm lại tháng 8 năm 2022 của W.B đã phân tích những diễn biến kinh tế lớn của Việt Nam trong nửa đầu năm 2022 và đưa ra dự báo trung hạn cho nền kinh tế. Cùng với rủi ro lớn trong nước và toàn cầu có thể ảnh hưởng đến triển vọng dự báo,W.B cũng đưa ra những khuyến nghị chính sách có thể giúp giảm nhẹ tác động của những rủi ro nhằm giúp nền kinh tế có khả năng chống chịu tốt hơn trong thời gian tới.
Phát biểu trong lễ ra mắt báo cáo,Giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam Carolyn Turk nhấn mạnh “Chúng tôi ra mắt báo cáo này vào thời điểm nền kinh tế toàn cầu đang trải qua hàng loạt những cú sốc rất lớn và rất tiêu cực, bao gồm những gián đoạn liên quan đến dịch COVID-19 đang diễn ra và cú sốc về cung liên quan đến cuộc chiến tại U-crai-na. Nền kinh tế Việt Nam đến nay vẫn tương đối vững vàng và đang phục hồi mạnh mẽ sau đợt suy giảm do COVID-19 gây ra vào năm ngoái”. Bà cho biết “Tăng trưởng GDP đạt 6,4% trong nửa đầu năm 2022 và chúng tôi dự kiến tăng trưởng vẫn khả quan từ nay đến cuối năm cũng như trong năm 2023. Tuy số liệu toàn phần nêu trên làm cho chúng ta yên tâm, nhưng Việt Nam phải đối mặt với rủi ro gia tăng, bao gồm lạm phát gia tăng, nguồn cung của các chuỗi giá trị toàn cầu (GVC) tiếp tục bị gián đoạn, tình trạng thiếu hụt lao động theo báo cáo, và các đợt bùng phát mới của dịch COVID, có thể cản trở phục hồi cả trong nước và trên thế giới.
Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc và Giám đốc quốc gia Ngân hàng thế giới tại Việt Nam Carolyn Turk
Trong bối cảnh phục hồi kinh tế mới bắt đầu, triển vọng nhu cầu trên toàn cầu yếu đi, rủi ro lạm phát gia tăng, các nhà nghiên cứu đã khuyến nghị các cấp có thẩm quyền cần chủ động ứng phó. Trước mắt, liên quan đến chính sách tài khóa, trọng tâm nên nhằm vào tập trung triển khai gói chính sách hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế, đồng thời mở rộng mạng lưới an sinh xã hội có mục tiêu, nhằm giúp người nghèo và những người dễ bị tổn thương chống đỡ nhữngcú sốc giá nhiên liệu cũng như lạm phát gia tăng. Trong khu vực tài chính, khuyến nghị đề ra là theo dõi chặt chẽ và tăng cường công tác dự phòng nợ xấu, đồng thời ban hành cơ chế xử lý tình trạng mất khả năng trả nợ.
Với quyết tâm chỉ đạo của Chính phủ, từ tâm huyết của các nhà quản lý và sự đồng cảm, nhiệt thành hỗ trợ của các định chế tài chinh toàn cầu, giúp chúng ta có niềm tin và hy vọng nền kinh tế đất nước sẽ vượt qua được những khó khăn, thách thức;sớm vươn lên để đứng trong đội ngũ các nước có thu nhập cao./.
❤️ Доброе утро,на ваш адрес прислали подарочек. Пройдите по ссылке >> https://forms.yandex.ru/cloud/62eb57d4d8074eaef87df31f/?hs=2efe3f272bd457e93c0f0d8c11a5dc49& ❤️
03:09 14/08/2022
13fcqg