Cách đây hơn 68 năm, một vị tướng nguyên là Đại đội trưởng Đại đội 225 (Trung đoàn 88, Sư đoàn 308, Đại đoàn Quân tiên phong) đánh chiếm đồi Độc Lập trong chiến dịch Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu. Vị tướng mà chúng tôi nhắc đến trong những ngày này là Trung tướng Lê Nam Phong, Nguyên Tư lệnh Quân đoàn 1, Nguyên hiệu trưởng Trường sĩ quan Lục quân 2.
Cạo trọc đầu để đánh thắng giặc
Là một vị tướng có nhiều biệt danh như: Nam “lửa”, Nam “bình toong”, Nam “hỏa lực” hay “Bố Nam”, nhưng có lẽ biệt danh “Đại đội trưởng đầu trọc” đã làm cho ông ấn tượng hơn cả. Nói về điều này, Trung tướng Lê Nam Phong bật mí: “Sau khi đại đội đánh xong đồi Độc Lập, tôi nhận được nhiệm vụ đánh tiếp những cứ điểm xung quanh sân bay Mường Thanh để quân Pháp không thể tiếp tế lương thực. Để có chỗ ẩn nấp, tôi đã cho quân đào chiến hào, công sự. Vì mưa to nên thung lũng Mường Thanh luôn bị ngập nước, quần áo không kịp khô anh em đã phải mặc vào. Khó chịu nhất là đầu lúc nào cũng bùn đất bám vào tóc nên anh em hầu hết bị nấm đầu. Không còn cách nào khác tôi là người đầu tiên cạo trọc đầu và huy động cả đội làm theo mình. Cũng từ đó cả đơn vị tôi có biệt danh riêng: “đại đội trọc đầu”.
Đến tháng 4-1954, trời mưa to làm cuốn đi tất cả đồ đạc và cả bộc phá trôi nổi khắp nơi. Đúng lúc đó, Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp đi kiểm tra, thấy bộc phá trôi nổi trong chiến hào nên đã gọi Lê Nam Phong lên vì lúc đó ông là đại đội trưởng. Nhớ lại hôm đó, Trung tướng Lê Nam Phong kể: “Nhìn thấy tôi, Đại tướng Võ Nguyên Giáp hỏi tại sao lại cạo đầu trọc? Hồi đó, tôi còn trẻ tuổi nên nghĩ sao nói vậy: “Cạo trọc đầu để thề đánh thắng thực dân Pháp xâm lược”. Từ đó, Đại tướng gọi tôi là “đại đội trưởng đầu trọc”.
Lúc đó, khi tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ 1954, ông chỉ mới 27 tuổi. Đó là khoảnh khắc đáng nhớ nhất của một vị tướng trận mạc, khi ông được tham gia từ đầu đến cuối một chiến dịch lớn như vậy. Sau 56 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt, máu trộn bùn non, “đại đội trưởng đầu trọc” cùng đồng đội chiếm được đồi Độc Lập, đánh chiếm toàn bộ cứ điểm Điện Biên Phủ, bắt sống tướng De Castries, góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội năm châu, chấn động địa cầu. Với chiến thắng này, quân Pháp phải tuyên bố chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam.
Đi từ đồi Độc Lập đến dinh Độc Lập
Trung tướng Lê Nam Phong sinh ra trong một gia đình nghèo ở huyện Quỳnh Lưu (Nghệ An). Từ bé, tận mắt chứng kiến cảnh người dân lầm than bị bọn thực dân, phong kiến áp bức, bóc lột, nên Lê Nam Phong sớm giác ngộ cách mạng. Kháng chiến bùng nổ, ông hăng hái tham gia vào lực lượng Vệ quốc đoàn và sau đó gia nhập Đại đoàn quân Tiên phong. Từ năm 1945-1954, ông đã có mặt trong tất cả các trận đánh lớn như chiến dịch Biên giới, Hà Nam Ninh, Hòa Bình… cho đến chiến dịch Điện Biên Phủ.
Trận đánh mở màn của ông trong chiến dịch Điện Biên Phủ là đánh chiếm đồi Độc Lập, một cứ điểm quan trọng của thực dân Pháp. Chiến thắng cứ điểm đồi Độc Lập với sự đóng góp của “đại đội đầu trọc” do ông chỉ huy đã góp phần làm nên chiến thắng vẻ vang Điện Biên Phủ. Kết thúc chiến dịch Điện Biên Phủ ông từ Tây Bắc trở về tiếp quản Thủ đô. Tuy nhiên, do chiến trường miền Nam đang ác liệt, năm 1964, “đại đội trưởng đầu trọc” lại lên đường vào Nam. Với tinh thần chiến đấu quả cảm và tài trí mưu lược ông trở thành Trung đoàn trưởng trung đoàn 3 thuộc Sư đoàn 9 (Bộ Tư lệnh Miền) và tham gia những trận đánh ác liệt như Bàu Bàng, Bông Trang Nhà Đỏ...
Nhưng có lẽ đối với Trung tướng Lê Nam Phong, chiến dịch Nguyễn Huệ làm ông nhớ hơn cả. Đơn vị do ông chỉ huy đã lập nên “bức tường thép” Tàu Ô - Xóm Ruộng, khiến Mỹ - ngụy phải khiếp sợ. Đến chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử năm 1975, ông trở thành Tư lệnh Sư đoàn 7 (thuộc Quân đoàn 4) trực tiếp chỉ huy đánh chiếm giải phóng thị xã Xuân Lộc (nay là thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai), phá tan “cánh cửa thép” Xuân Lộc mở cửa cho đại quân ta tiến vào giải phóng Sài Gòn, nơi đế quốc Mỹ xác định: Mất Xuân Lộc là mất Sài Gòn. Trên đà chiến thắng, đơn vị của ông đã tiến về hướng Sài Gòn giải phóng Biên Hòa. 12h trưa ngày 30-4-1975, đơn vị của ông đã có mặt ở dinh Độc Lập. Lúc này, cờ đỏ sao vàng đã tung bay khắp trong dinh Độc Lập. Đơn vị của ông đã vinh dự được cắm một lá cờ chiến thắng. Nhớ lại giây phút trọng đại ấy, ông không giấu được sự xúc động: “Khi vừa đặt chân đến dinh Độc Lập thấy cánh cổng bị phá sập, tôi chỉ muốn hét thật to cho thỏa lòng bao năm chờ đợi. Bao nhiêu năm tôi và đồng đội chiến đấu gian khổ chỉ mong có ngày ấy, nhưng tôi chỉ biết đứng lặng nhìn mọi người đang hân hoan vui mừng mà nước mắt cứ trào ra. Và cảm giác vui sướng của tôi giống y hệt như cái ngày tôi đứng trước đồi Độc Lập khi chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng. Tôi đã đi từ đồi Độc lập đến dinh Độc Lập, cùng đồng đội hoàn thành nhiệm vụ cao cả mà đất nước đã giao phó là giành lại độc lập cho Tổ quốc”.