Nhờ khu vực chế tạo chế biến đứng vững và ngành dịch vụ phục hồi mạnh mẽ, quá trình phục hồi kinh tế của Việt Nam đã tăng tốc trong thời gian qua. Theo Ngân hàng Thế giới(W.B) tăng trưởng GDP được dự báo sẽ từ 2,6% của năm 2021 tăng mạnh lên 7,5% trong năm 2022 và lạm phát giữ trung bình ở mức 3,8% trong năm nay. Phân tích diễn biến kinh tế gần đây và triển vọng của môi trường kinh tế toàn cầu, W,B nhận thấy, sau hơn hai năm khủng hoảng COVID-19, các cú sốc kinh tế đã làm gia tăng tính bất định và phủ bóng đen lên nền kinh tế toàn cầu
Vượt qua những cú sốc và tình trạng bất định gia tăng, nền kinh tế Việt Nam vẫn trên lộ trình phục hồi qua những năm bị tổn thương. Sau giãn cách xã hội nghiêm ngặt và GDP sụt giảm vào quý III năm 2021, nền kinh tế bắt đầu phục hồi từ mùa thu năm 2021. Cuối tháng 12 năm 2021, 80% dân số được tiêm vắcxin và biện pháp hạn chế đi lại dần được gỡ bỏ, nền kinh tế được phục hồi với nhịp độ tăng trưởng 5,2% trong quý IV năm 2021, 5,1% trong quý I năm2022 và 7,7% trong quý II so với cùng kỳ năm trước
Mặc dù quá trình phục hồi diễn ra nhanh, nhưng chưa đồng đều, tổng sản lượng thấp hơn xu hướng trước đại dịch đến 3,8% , đặc biệt các ngành dịch vụ phục hồi thấp, thấp hơn tớii 5,7% so với trước Covid-19 và triển vọng vẫn phụ thuộc vào rủi ro, đe dọa đến viễn cảnh phục hồi.
Bài viết tổng hợp những nét cơ bản về thực trạng và triển vọng kinh tế Việt Nam từ góc nhìn của Ngân hàng Thế giới.
Thực trạng nền kinh tế Việt Nam gần đây
Sau hơn 2 năm khủng hoảng COVID-19, môi trường kinh tế toàn cầu trở nên thách thức hơn; những cú sốc kinh tế làm gia tăng tính bất định và phủ bóng đen lên bức tranh kinh tế toàn cầu. Cuộc chiến tại U-crai-na được dự báo sẽ làm chậm quá trình phục hồi kinh tế ở nhiều quốc gia và dấy lên nỗi ám ảnh về lạm phát đình đốn tại các nước phát triển, dẫn đến điều kiện huy động vốn bị thắt chặt trên thị trường toàn cầu. Các biện pháp kiểm soát sự lây lan của biến thể COVID-19 khiến triển vọng tăng trưởng yếu đi và làm gián đoạn các chuỗi giá trị. Tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2022 dự báo chỉ đạt 2,9%; các đối tác thương mại lớn đều bị tác động bởi những cú sốc. Trong đó, tăng trưởng kinh tế của Hoa Kỳ và khu vực đồng Euro chỉ đạt 2,5%, còn Trung Quốc dự kiến tăng 4,3%. Bên cạnh đó, lạm phát tăng mạnh ở cả những nền kinh tế phát triển, đang phát triển và thị trường mới nổi
Vượt qua những cú sốc và tình trạng bất định gia tăng, nền kinh tế Việt Nam đang trên lộ trình phục hồi qua những năm bị tổn thương. Sau giãn cách xã hội nghiêm ngặt và GDP sụt giảm mạnh vào quý III năm 2021, nền kinh tế bắt đầu phục hồi vào mùa thu năm 2021. Đến cuối năm 2021, 80% dân số đã được tiêm vácxin và các biện pháp hạn chế đi lại dần được gỡ bỏ. Nhờ đó, nền kinh tế dã tăng trưởng với tốc độ 5,2% trong quý IV năm 2021, 5,1% trong quý I năm 2022 và 7,7% trong quý II.
Mặc dù quá trình phục hồi diễn ra nhanh, nhưng chưa đồng đều, khi tổng sản lượng vẫn còn thấp hơn xu hướng trước Covid đến 3,8% và đặc biệt các ngành dịch vụ phục hồi chậm, thấp hơn đến 5,7% so với trước đại dịch. Đáng lưu ý là các doanh nghiệp phục hồi yếu; khi nền kinh tế mở cửa trở lại trong quý IV năm 2021 và quý I năm 2022, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh vẫn cần thêm thời gian mới có thể phục hồi hoàn toàn. Khảo sát tác động đến doanh nghiệp do Ngân hàng Thế giới thực hiện từ tháng 1 đến tháng 3 năm 2022 cho thấy, 92,6% doanh nghiệp trở lại hoạt động và 20% có tuyển lao động mới trong quý I năm 2022. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp vẫn phải đối mặt với thách thức. 44% cho biết doanh số vẫn giữ nguyên, nhưng tới 56% cho rằng doanh số bị giảm so với trước đại dịch.
Tình trạng thiếu lao động trên diện rộng là hiện tượng kéo đến tháng 03 năm 2022, nhất là đối với các doanh nghiệp trong ngành dịch vụ, công nghiệp chế tạo, chế biến và trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Thị trường lao động phục hồi, nhưng tác động của COVID-19 vẫn còn kéo dài. Thị trường lao động và thu nhập của hộ gia đình được cải thiện trong nửa đầu năm 2022 với tỷ lệ lao động có việc làm trở về mức trước đại dịch. Số người tham gia thị trường lao động tăng lên 68,5%, nhưng vẫn thấp hơn trước đại dịch là 71,3% (Q4/2019). Mặc dù thu nhập bình quân của hộ gia đình tăng 5,8% trong Q2 năm 2022, nhưng nhiều hộ vẫn tiếp tục cảm thấy hiệu ứng xấu của COVID-19. Tính đến tháng 4 năm 2022, 1/4 số hộ gia đình ở khu vực thành thị cho biết, thu nhập của họ thấp hơn so với cùng kỳ năm trước.
Trong tình hình chung của kinh tế vĩ mô, khu vực kinh tế đối ngoại vẫn tiếp tục thể hiện khả năng chống chịu tốt. Mặc dù cán cân vãng lai xấu đi, nhưng vị thế kinh tế đối ngoại vẫn duy trì vững chắc nhờ giải ngân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục gia tăng. Tài khoản vãng lai ghi nhận thâm hụt ở mức 1,5 tỷ US$ (tương đương1,7% GDP) vào Q1năm 2022, trong khi giải ngân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng đến 10 tỷ US$ trong nửa đầu năm 2022.
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa của Đồng Việt Nam so với Đô la Mỹ tương đối ổn định, đồng đô-la Mỹ mạnh lên, đồng VND cũng tăng giá so với đồng tiền của nhiều đối tác thương mại, bao gồm cả đồng tiền EURO và Nhân dân tệ.
Chính sách tiền tệ khi khu vực tài chính và ngân hàng phải đối mặt với rủi ro gia tăng buộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) phải thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng để hỗ trợ phục hồi, đảm bảo thanh khoản dồi dào và duy trì tăng trưởng tín dụng ở mức cao. Hệ quả là tổng cung tiền tăng trưởng cao hơn so với tốc độ tăng trưởng GDP danh nghĩa với tỷ lệ M2/GDP từ 139% năm 2019 lên khoảng 160% trong năm 2021.
Mặc dù lạm phát toàn phần gia tăng, nhưng NHNN vẫn giữ nguyên lãi suất chính sách kể từ tháng 03 năm 2020 với lãi suất thực gần bằng không. Các cấp có thẩm quyền duy trì ổn định tài chính tổng thể, nhưng chất lượng tài sản vẫn là vấn đề quan ngại. Tỷ lệ nợ xấu chính thức ở mức 1,53% trong quý I/2022; nhưng theo các nhà nghiên cứu, biện pháp cơ cấu lại thời gian trả nợ được kết thúc vào tháng 06năm 2022 có thể che dấu một số vấn đề chất lượng tài sản. Nếu xác định nợ theo phạm vi rộng hơn, bao gồm cả nợ đã được tái cơ cấu, thì tỷ lệ nợ có rủi ro ít nhất phải lên tới 5,76%.
Đáng lưu ý là, chất lượng vốn vay đối với tín dụng tiêu dùng (chiếm 12,5% tổng tín dụng năm 2021) đã xấu đi đáng kể với tỷ lệ nợ xấu tăng từ 5,5% năm 2020 lên 9,4% trong năm 2021. Mặc dù tỷ lệ an toàn vốn trên toàn hệ thống ở mức 11,5% ( Q1/2022) , cao hơn so với yêu cầu quản lý nhà nước là 9%, nhưng vốn mỏng và tỷ lệ dự phòng khác nhau ở các ngân hàng là một vấn đề quan ngại khi các ngân hàng phải duy trì tỷ lệ nợ xấu cao hơn trong tình trạng giá cả hàng hóa thế giới đẩy lạm phát tăng cao.
Lạm phát tính theo chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng từ 1,8% trong tháng 12 năm 2021 lên 3,4% trong tháng 6 năm 2022, nhưng vẫn thấp hơn mục tiêu 4% của NHNN. Lạm phát gia tăng có nguyên nhân từ những cú sốc về cung, giá xăng dầu tăng 61,2% trong tháng 6 năm 2022, làm giá vận tải tăng 21,4%, đóng góp tới 1,9 điểm phần trăm vào lạm phát CPI trong tháng 6.
Mặc dù giá lương thực, thực phẩm và lạm phát cơ bản tăng nhẹ, lần lượt với tỷ lệ 2,3% và 2,0% trong tháng 6 năm 2022. Song do chỉ số giá sản xuất công nghiệp chế tạo, chế biến tăng bình quân 4,1% trong 6 tháng đầu năm 2022 làm chính sách tài khóa phải đi theo hướng thu hẹp, giúp NSNN đạt bội thu 9,6 tỷ USD trong 6 tháng đầu năm 2022(thu NSNN đạt 66,1% dự toán trong khi chi NSNN chỉ đạt 40%). Nhờ bội thu NSNN, quy mô vay nợ của Chính phủ dược hạn chế với tỷ lệ nợ công và nợ được khu vực công bảo lãnh so với GDP giảm xuống 43,1% trong năm 2021, thấp hơn so với trần 60% GDP trong Chiến lược nợ công giai đoạn 2021-2030.
Triển vọng phát triển kinh tế Việt Nam và những thách thức, rủi ro
Nền kinh tế có nhiều triển vọng tích cực, nhưng rủi ro đang đòi hỏi các cấp thẩm quyền phải có biện pháp chính sách chủ động.
Cho dù môi trường toàn cầu có nhiều thách thức, nhưng triển vọng kinh tế Việt Nam vẫn có thuận lợi theo những dự báo cơ sở. Nhờ hiệu ứng xuất phát điểm thấp, GDP dự kiến sẽ tăng trưởng 7,5% trong năm 2022 và 6,7% trong năm 2023, khi các hoạt động kinh tế trở lại trạng thái bình thường.
Mặc dù tăng trưởng có thể cao hơn, nhưng nền kinh tế vẫn chưa trở lại mức tiềm năng trong năm 2022. Động lực tăng trưởng được dự kiến sẽ chuyển từ dựa vào nhu cầu bên ngoài sang dựa vào nhu cầu trong nước, từ khu vực chế tạo chế biến sang khu vực dịch vụ. Đến nay, quá trình phục hồi của khu vực dịch vụ vẫn còn đi sau. Tuy nhiên, dự kiến sẽ được đẩy mạnh do người tiêu dùng trong nước tăng chi tiêu để thỏa mãn nhu cầu bị dồn nén và số lượt khách du lịch quốc tế sẽ được phục hồi. Sản xuất công nghiệp có xu hướng chững lại do sức cầu bên ngoài yếu đi. Lạm phát được dự báo tăng đến 4% vào năm 2023, trước khi dừng lại còn 3,3% trong năm 2024.
Về kinh tế đối ngoại, tài khoản vãng lai dự kiến trở lại mức thặng dư nhỏ (0,2 - 0,6% GDP) trong trung hạn nhờ xuất khẩu hàng hóa đứng vững, du lịch quốc tế phục hồi và nguồn kiều hối sẽ dồi dào hơn. Tuy nhiên những dự báo cơ sở vẫn gợi ra nền kinh tế còn phụ thuộc vào nhiều bất định và rủi ro tăng trưởng. Nhìn từ bên ngoài, các biến chủng COVID-19 mới xuất hiện và lây lan, cùng với sự gián đoạn của hoạt động kinh tế vẫn là rủi ro chủ yếu.
Mặc dù quá trình bình thường hóa đang diễn ra và hầu hết các quốc gia đều gỡ bỏ những hạn chế liên quan đến COVID-19, song áp lực lạm phát vẫn còn dai dẳng và triển vọng thắt chặt tiền tệ mạnh hơn trong nền kinh tế Hoa Kỳ và những nước phát triển, có thể làm biến động thị trường tài chính toàn cầu, làm suy giảm tăng trưởng kinh tế vào thời điểm các hoạt động kinh tế đang bị chững lại. Ngoài ra, căng thẳng và xung đột địa chính trị gia tăng cũng làm tăng bất định trước mắt, có thể dẫn đến chuyển đổi cơ cấu dài hạn trong nền kinh tế toà cầu. Một khi những nền kinh tế lớn phải đánh giá lại chi phí và lợi ích của quá trình hội nhập sẽ dẫn đến rủi ro ngắn và trung hạn cho nền kinh tế toàn cầu.
Nhìn từ trong nước, những rủi ro liên quan đến COVID-19 có thể ảnh hưởng đến quá trình phục hồi, nhất là trong các lĩnh vực dịch vụ. Thiếu hụt lao động có thể ảnh hưởng đến khả năng phục hồi đầy đủ. Ngoài ra, rủi ro tài chính có thể gia tăng khi nhìn vào những yếu kém gợi ra
Khảo sát tác động tới doanh nghiệp của Ngân hàng Thế giới, được thực hiện từ tháng 01 đến hết tháng 03 năm2022 cho thấy, 30% số doanh nghiệp xuất khẩu tiếp tục bị ảnh hưởng do gián đoạn chuỗi giá trị toàn cầu, những doanh nghiệp này đã phải hủy đơn hàng trong giai đoạn từ tháng 12 năm 2021 đến tháng 02 năm 2022 do thiếu đầu vào.
Cân đối tài sản của khu vực doanh nghiệp, ngân hàng và hộ gia đình có thể ảnh hưởng đến quá trình phục hồi đầu tư và tiêu dùng trong nước. Rủi ro lạm phát được nhận rõ.;mặc dù lạm phát do các yếu tố cung bên ngoài, nhưng giá cả gia tăng lên tục đã tạo áp lực gây xáo trộn về chi phí sản xuất và tiền lương danh nghĩa. Nhìn từ phía cầu, nhu cầu trong nước gia tăng, đặc biệt khi tiêu dùng tiếp tục phục hồi có thể tăng áp lực lên giá cả. Lạm phát kéo dài và cao hơn dự kiến có thể làm suy giảm quá trình phục hồi, nhất là về đầu tư và tiêu dùng tư nhân.
Giải pháp cần được quan tâm
Trong bối cảnh nước ta, các nhà hoạch định chính sách phải đối mặt với nhiệm vụ khó khăn là cân bằng giữa nhu cầu tiếp tục chính sách hỗ trợ để củng cố quá trình phục hồi với kiềm chế lạm phát và rủi ro tài chính phát sinh. Bất định gia tăng đồng nghĩa với chính sách phải thích ứng với nhịp độ phục hồi cả ở Việt Nam và trên thế giới, đồng thời phải thận trọng với lạm phát và những rủi ro về tài chính.
Quá trình phục hồi kinh tế trong nước chưa hoàn tất và nhu cầu toàn cầu yếu đi, chính sách tài khóa mang tính hỗ trợ là cách để phòng ngừa rủi ro tăng trưởng. Cho dù Việt Nam có dư địa tài khóa để thực hiện, nhưng thách thức lại nằm ở những yếu kém trong triển khai thực hiện. Cách xử lý ách tắc về thể chế đến nay khiến chương trình đầu tư công liên tục không đạt kế hoạch để chính sách tài khóa trở nên hiệu quả.
Triển vọng tăng trưởng tích cực của nền kinh tế phụ thuộc vào rủi ro gia tăng, đe dọa đến viễn cảnh phục hồi. Rủi ro bao gồm tăng trưởng chậm lại hoặc lạm phát đình đốn diễn ra ở những thị trường xuất khẩu chủ lực, cú sốc giá cả hàng hóa thế giới tiếp tục diễn ra, các chuỗi cung ứng toàn cầu tiếp tục bị gián đoạn hoặc các biến chủng COVID-19 mới tiếp tục xuất hiện. Bên cạnh đó còn có những thách thức trong nước, bao gồm thiếu hụt lao động, rủi ro lạm phát gia tăng, và rủi ro cao hơn của khu vực tài chính.
Trước mắt, liên quan đến chính sách tài khóa, mà trọng tâm nhằm vào triển khai những gói chính sách hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế, đồng thời mở rộng mạng lưới an sinh xã hội có mục tiêu giúp người nghèo và những đối tượng dễ bị tổn thương chống đỡ với những cú sốc của giá nhiên liệu và lạm phát gia tăng. Theo giới nghiên cứu, trong khu vực tài chính cần theo dõi chặt chẽ và tăng cường hơn nữa dự phòng nợ xấu, đồng thời ban hành cơ chế xử lý tình trạng mất khả năng trả nợ.
Rủi ro bao gồm tăng trưởng chậm lại hoặc lạm phát đình đốn diễn ra ở những thị trường xuất khẩu chủ lực. Những cú sốc giá cả hàng hóa thế giới diễn ra cùng với chuỗi cung ứng toàn cầu tiếp tục bị gián đoạn, hoặc biến chủng COVID-19 mới tiếp tục xuất hiện sẽ ảnh hưởng bát lợi đến đà tăng trưởng. Bên cạnh đó còn có những thách thức trong nước, bao gồm thiếu hụt lao động, rủi ro lạm phát gia tăng, và rủi ro cao trong khu vực tài chính.
Trong bối cảnh phục hồi trong nước mới chỉ bắt đầu, nhu cầu toàn cầu yếu đi và rủi ro lạm phát gia tăng, các cấp thẩm quyền cần chủ động ứng phó. Trước mắt, liên quan đến chính sách tài khóa mà trọng tâm phải tập trung vào triển khai các gói chính sách hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế, đồng thời mở rộng mạng lưới an sinh xã hội nhằm giúp người nghèo và những đối tượng dễ bị tổn thương chống đỡ với tác động của cú sốc giá nhiên liệu cũng như lạm phát gia tăng. Trong khu vực tài chính, khuyến nghị đề ra là theo dõi chặt chẽ và tăng cường công tác báo cáo và dự phòng nợ xấu, đồng thời ban hành cơ chế xử lý tình trạng mất khả năng trả nợ.
Chương trình phục hồi dự kiến sẽ đẩy mạnh đầu tư vào hạ tầng cơ sở vật chất và công nghệ số. để thúc đẩy quá trình phục hồi nhu cầu trong nước trong ngắn hạn, đồng thời nâng cao tốc độ tăng trưởng tiềm năng trong dài hạn. Bên cạnh đó, mở rộng mạng lưới an sinh xã hội có mục tiêu không chỉ giúp các hộ nghèo và dễ tổn thương chống đỡ tác động của giá nhiên liệu và lạm phát gia tăng mà còn hạn chế được tác động đến tiêu dùng tư nhân, tạo hiệu quả cao hơn so với phương án cắt giảm thuế bảo vệ môi trường, cắt giảm thuế giá trị gia tăng (GTGT) và thuế nhập khẩu theo cách không có mục tiêu như hiện nay.
Do lạm phát cơ bản được kiểm soát và nền kinh tế vẫn nằm dưới mức tiềm năng, nên chính sách tiền tệ nới lỏng vẫn phù hợp ở thời điểm hiện tại. Tuy nhiên, nếu rủi ro lạm phát gia tăng trở thành hiện thực ( khi vượt chỉ tiêu 4%GDP), NHNN phải chuyển sang thắt chặt tiền tệ để kìm áp lực bằng cách tăng lãi suất và thắt cung tiền để neo giữ được kỳ vọng lạm phát bằng cách cách nâng cao hiệu quả và tác động truyền dẫn của chính sách tiền tệ.
Rủi ro tài chính phát sinh cần được chủ động quản lý để nâng cao khả năng chống chịu của hệ thống ngân hàng. Cơ chế xử lý tình trạng mất khả năng trả nợ của doanh nghiệp và cơ chế xử lý trong khu vực ngân hàng hiệu quả có vai trò quan trọng nhằm xử lý tình trạng mất khả năng trả nợ. Bên cạnh đó, điều quan trọng là tăng cường chiều sâu của những cải cách cơ cấu, nhằm hỗ trợ cho tiềm năng tăng trưởng trong trung hạn, giúp cho nền kinh tế phát triển bao trùm với khả năng chống chịu cao hơn.
Việc cải cách tài khóa cần tập trung vào ổn định huy động thu thông qua cải cách chính sách thuế và nâng cao hiệu suất chi tiêu nhằm mở rộng dư địa tài khóa để chi cho các mục tiêu xã hội, khí hậu và các mục tiêu phát triển khác. Khuyến khích tăng đầu tư công và đầu tư tư nhân cho thích ứng khí hậu, bao gồm tại các khu vực quan trọng như đồng bằng sông Cửu Long là cách giúp nền kinh tế nâng cao khả năng chống chịu. Song song với đó là chính sách hướng tới mục tiêu trung hòa các-bon, bao gồm phát triển năng lượng tái tạo và định giá các-bon, qua đó có thể nâng cao năng lực cạnh tranh trên các thị trường công nghệ và sản phẩm xanh đang phát triển.
Mặc dù những nỗ lực nhằm tăng cường môi trường kinh doanh là cần thiết để tạo việc làm, nhưng các nhà hoạch định chính sách đều hướng vào giảm chênh lệch về kỹ năng và cải thiện chất lượng lực lượng lao động,
Thay lời kếtt luận
Phát biểu trong lễ công bố báo cáo Điểm lại, cập nhật triển vọng kinh tế Việt Nam của Ngân hàng Thế giới, Giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam. Carolyn Turk, nhấn mạnh “Để duy trì tăng trưởng kinh tế với tốc độ mong muốn, Việt Nam cần tăng năng suất ở mức 2-3% mỗi năm. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy tăng năng suất lao động chỉ có thể đạt được bằng cách đầu tư cho hệ thống giáo dục, là phần quan trọng của gói các đầu tư và cải cách cần thiết. Lực lượng lao động có năng lực cạnh tranh sẽ đem lại hiệu suất là yếu tố Việt Nam rất cần trong dài hạn”.
Đổi mới hệ thống giáo dục đại học là chìa khóa để nâng cao năng suất và giúp Việt Nam hoàn thành mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập trung bình cao vào năm 2035 và quốc gia thu nhập cao vào năm 2045.
Từ những nhìn nhận khách quan của Ngân hàng Thế giới, trước thực trạng nước ta với vai trò mở đường của các doanh nghiệp và tâm huyết của các nhà quản lý, chúng ta có niềm tin và hy vọng nền kinh tế sẽ vượt qua những khó khăn thách thức sau đại dịch để vươn lên xứng tầm là một quốc gia có thu nhập cao và dứng trong hàng ngũ các nước phát triển vào giữa thế kỷ này./.