Anh hùng Lê Văn Dỵ và những trận đánh liên tục tiễu phỉ trên đất Lào cho tới lúc hy sinh

Năm 1960, Đại úy Lê Văn Dỵ chỉ huy Tiểu đoàn 4 cùng với Tiểu đoàn 3 (cả 2 đơn vị đều thuộc Lữ đoàn 316) do Đại úy Lý Long Quân chỉ huy tấn công giải phóng Sốp Hùn lần thứ 2 (tiêu diệt Sốp Hùn lần thứ nhất là Tiểu đoàn 1 do Đại úy Đàm Văn Ngụy chỉ huy, sau này ông là Trung tướng, Tư lệnh Quân khu 1).

Hai tiểu đoàn tấn công quyết liệt buộc quân địch phải bỏ chạy khỏi Sốp Hùn 50 km. Thừa thắng, quân ta truy kích tiêu diệt địch để trừ tận gốc âm mưu lấn chiếm của chúng và phối hợp với lực lượng của bạn bao vây Nậm Bạc.

dt1hung1a-1760236532.jpg
 

Thị trấn Nậm Bạc là một căn cứ quân sự lớn của địch, gồm 5 cứ điểm do 7 đại đội Vàng Pao chiếm giữ, với hỏa lực được trang bị mạnh. Sau khi bị mất Sốp Hùn, địch tăng cường lực lượng để giữ Nậm Bạc. Đại úy Lê Văn Dỵ chỉ huy Tiểu đoàn 4 cùng với Tiểu đoàn 3 dũng mãnh tấn công địch. Chỉ sau 1 giờ chiến đấu, ta diệt tại chỗ 22 tên, quân địch hoảng sợ phải hạ vũ khí đầu hàng. Nậm Bạc được giải phóng.

Cũng năm 1960, Đại úy Lê Văn Dỵ được trên giao nhiệm vụ chỉ huy đơn vị phối hợp với Tiểu đoàn 3 Thị xã Mường Sài là một cứ điểm quan trọng do 3 tiểu đoàn chủ lực và 3 đại đội dân vệ bán vũ trang của địch chiếm giữ. Hỏa lực của chúng có cối 120 ly, ĐKZ 57 và 75 ly. Đại úy Lê Văn Dỵ và Đại úy Lý Long Quân chỉ huy đơn vị tấn công Mường Sài từ hai hướng. Ngay những phút đầu nổ súng, ta diệt tại chỗ 25 tên, bắt sống và gọi hàng 450 tên, số còn lại tan rã bỏ chạy, Mường Sài được giải phóng.

dt1ahung2b-1760236606.jpg
 

Sau khi giải phóng Mường Sài, Đại úy Lê Văn Dỵ và Đại úy Lý Long Quân tiếp tục chỉ huy 2 Tiểu đoàn tiến công địch ở Nà Mỏ. Trước tinh thần và khí thế tiến công mãnh liệt của ta, quân địch phải bỏ Nà Mỏ, tháo chạy về cố thủ xung quanh thị xã Nậm Thà.

Bộ đội ta truy kích địch theo hai hướng: Đại úy Lê Văn Dỵ chỉ huy Tiểu đoàn 4 đánh chiếm Pắc Beng và điểm cao 1.620. Đại úy Lý Long Quân chỉ huy Tiểu đoàn 3 đánh địch theo hướng Nà Tươi - Sa Le - Nậm Boong, rồi 2 cánh quân thẳng tiến về Nậm Thà. Trước sự tiến công áp đảo của ta, quân địch phải tháo chạy về cố thủ tại Nậm Bông - Toong Đi - Nậm Thoong - Nà Nọi, chúng cố giữ Nậm Thà chờ cứu viện. Hai tiểu đoàn 3 và 4 tổ chức chốt chặn hình thành gọng kìm sắt bao vây quân địch.

dt1ahung3c-1760236678.jpg
 

Quân tình nguyện Việt Nam đã phối hợp với bạn chiến đấu liên tục và giải phóng các địa danh từ Chòm Cheng, Pác Bút, Giang Tơi, Sốp Coi, Mường Lá, Nà Mỏ, Mường Sài, Nậm Bạc, Mường Hùn..., nối liền khu căn cứ kháng chiến cho Bạn từ Mường Sài đến Nậm Thà. Với thắng lợi to lớn này của ta, đã buộc bọn phản động Lào phải ký Hiệp định đình chiến ngày 3/5/1961 để tìm giải pháp chính trị cho vấn đề Lào.

Sau khi Bạn ký Hiệp định đình chiến, cuối tháng 5/1961, Lữ đoàn 316 tạm rút Tiểu đoàn 4 về biên giới, chỉ để lại Mường Sài Tiểu đoàn 3 để bảo vệ căn cứ. Lợi dụng mùa mưa ta gặp khó khăn về vận chuyển, tiếp tế, cơ động lực lượng, địch đã đánh nống ra lấn chiếm Nà Mỏ, Mường La, Mường Sài, rồi đánh lấn Mường Khoa, Pác Bút, Nậm Bạc, liên lạc với phía bắc và nối liền với Luông Pha Băng.

Trước tình hình đó, cuối năm 1961 Tiểu đoàn 4 do Đại úy Lê Văn Dỵ chỉ huy được lệnh trở lại Mường Sài, cùng với Tiểu đoàn 3 và bộ đội Pathét Lào tiến công tiêu diệt địch. Ngay sau khi trở lại Mường Sài, Tiểu đoàn 4 cùng với Tiểu đoàn 3 tiến công giải phóng Nà Luông, Mường Beng, Nà Vang, Nậm Ke, Nà Mỏ, Pắc Beng, diệt 50 tên địch, bắt 39 tên, thu nhiều vũ khí, trang bị, lấy lại được toàn bộ vùng giải phóng bị địch tái chiếm, ta đã giải phóng thêm từ Nà Vang đến Pắc Beng và từ Nậm Ke tới phía đông thung lũng Nậm Thà, tạo thế bao vây chặt Nậm Thà. Tiểu đoàn 4 và Tiểu đoàn 3 được giao nhiệm vụ tiếp tục ở lại cùng với Bạn “Bao vây, khống chế, giam chân và nắm địch, chuẩn bị tổng công kích Nậm Thà”.

Tháng 3/1962, chiến trường Lào vẫn ở thế giằng co giữa ta và địch. Do vị trí đặc biệt quan trọng của Nậm Thà, nên địch đã rút bớt quân ở các chiến trường khác về tăng cường cho Nậm Thà để quyết giữ Nậm Thà cho bằng được. Lực lượng của chúng đã lên tới hơn 20 tiểu đoàn, trong đó có nhiều lực lượng tinh nhuệ, thiện chiến, hoả lực có từ pháo 75 đến 105 ly. Để giải quyết được vấn đề Lào, làm sụp đổ hy vọng giành thế mạnh trên chiến trường của chúng, buộc chúng phải ngồi vào thương lượng trên thế thua, Bộ Tổng Tư lệnh quyết định mở Chiến dịch tiến công giải phóng Nậm Thà với mục tiêu: “Tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng Nậm Thà-Mường Sinh, phá vỡ thế uy hiếp của địch ở Thượng Lào, mở thông mối quan hệ giữa cách mạng Lào với các nước anh em” và xác định: "Nậm Thà sẽ là trận đánh quyết định thắng lợi của toàn chiến dịch”.

Đại úy Lê Văn Dỵ vinh dự được Bộ Tư lệnh chiến dịch giao chỉ huy Tiểu đoàn 4 là mũi đột phá vào Nậm Thà, sau đó sẽ cùng với các lực lượng khác truy kích địch về phía nam-về Viêng Phu Kha-Ta Pa, hội quân với Tiểu đoàn 3 (Lữ đoàn 335) tại đây.

Ngày 3/5/1962, các lực lượng ta đồng loạt tiến công Mường Hùn, Mường Ngà, Nà Khốc, Nậm Pích, Viêng Phu Kha và tung thâm Nậm Ngà...

Đúng 4h20’ ngày 6/5/1962, Đại úy Lê Văn Dỵ chỉ huy Tiểu đoàn 4 tấn công đánh chiếm đồi Bun Chăn (cùng thời điểm, Tiểu đoàn 1, Lữ đoàn 316 do Đại úy Đàm Văn Ngụy chỉ huy tấn công đồi Xanh). Trận đánh tại đồi Bun Chăn và đồi Xanh diễn ra rất quyết liệt.

Tới 5h30’, Tiểu đoàn 4 đã làm chủ đồi Bun Chăn, rồi phát triển về hướng đồi Xanh. Địch tổ chức lại lực lượng, bắn pháo dữ dội vào đội hình Tiểu đoàn 4. 6h45’, được sự chi viện đắc lực của pháo binh, Tiểu đoàn 1 cũng đánh chiếm được tiền duyên địch và phát triển vào các vị trí ngay sát Nậm Thà. 8h30’, Tiểu đoàn 4 đã tiến công áp sát Nậm Thà. Các trận đánh diễn ra quyết liệt. Trước sức tiến công mãnh liệt của ta, tàn quân địch hoảng sợ bỏ chạy.

Ngày 13/5/1962, Chiến dịch Nậm Thà kết thúc thắng lợi. Ta đã tiêu diệt 237 tên, bắt sống và gọi hàng 4.000 tên, giải phóng gần 8.000 cây số vuông đất đai có vị trí chiến lược về mặt quân sự, kinh tế ở Thượng Lào với hơn 7.000 dân.

Chiến thắng Nậm Thà có ý nghĩa quân sự và chính trị to lớn, là nhân tố quan trọng, là "đòn xeo chiến lược" đẩy tới việc thành lập chính phủ liên hiệp theo phương hướng hòa bình, dân chủ và tiến bộ, phù hợp với chủ trương đấu tranh của Đảng NDCM Lào, đưa nước Lào vào con đường hòa bình, trung lập, thống nhất và độc lập dân tộc, trên cơ sở quốc tế thừa nhận ở Hội nghị Giơnevơ năm 1962 về Lào.

Năm 1964, Đại úy Lê Văn Dỵ chỉ huy Tiểu đoàn 4 tiếp tục cùng các đơn vị bạn làm nhiệm vụ quét phỉ, giải phóng một vùng đất rộng lớn từ Mường La đến Long Gia.

Đến tháng 1/1965, Lữ đoàn 316 được tổ chức lại thành Sư đoàn 316; ngày 19/3/1965, Đại úy Lê Văn Dỵ được bổ nhiệm là Tham mưu phó, tháng 5/1966, được bổ nhiệm là Tham mưu trưởng Trung đoàn 174, anh đã góp phần chỉ huy Trung đoàn chiến đấu giải phóng Hứa Mường, một vị trí quan trọng sát Sầm Nưa, thủ đô kháng chiến của Bạn, loại khỏi vòng chiến đấu 3 Tiểu đoàn địch, bảo vệ vững chắc trận địa.

Với cương vị là Phó Ban tác chiến Sư đoàn 316, Đại úy Lê Văn Dỵ đã góp phần chỉ huy Sư đoàn đánh tan 3 binh đoàn cơ động, 1 Tiểu đoàn của Binh đoàn cơ động 25 và 1 Tiểu đoàn pháo, diệt và bắt sống 3.189 tên (trong đó có 84 sĩ quan), phá hủy 12 máy bay cùng nhiều súng các loại, thu hồi toàn bộ vùng lãnh thổ bị địch lấn chiếm từ giữa năm 1967; tháng 10/1969, đập tan cuộc hành quân Cù Kiệt (rửa hận) của địch…

Ngày 13/3/1970, trong khi chuẩn bị cho Chiến dịch Cánh Đồng Chum- Xiêng Khoảng, Đại úy Lê Văn Dỵ đã ngã xuống trong một trận ném bom của địch khi vừa bước sang tuổi 44. Sau 55 năm người anh hùng hi sinh, đồng đội và gia đình vẫn chưa tìm được phần mộ và hài cốt.

Với những đóng góp to lớn vì nghĩa vụ Quốc tế cao cả, Đại úy Lê Văn Dỵ đã được Đảng, Nhà nước CHDCND Lào truy tặng “Huân chương Tự do hạng Nhất”.

*

Tác phẩm “Đâu có giặc là ta cứ đi” sẽ được giới thiệu trang trọng tại Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam đúng dịp kỷ niệm 95 năm ngày Phụ nữ Việt Nam. Chúng ta không thể không nhắc đến sự hi sinh và cống hiến thầm lặng của bà Hoàng Thị Hừu (1940 – 2020) – người vợ tào khang của Anh hùng Liệt sĩ Lê Văn Dỵ. Bà sinh trưởng tại xã Phú Sơn, huyện Nho Quan cũ, tỉnh Ninh Bình. Ông bà kết hôn ngày 6/4/1955. Năm 1970, khi Anh hùng Lê Văn Dỵ hy sinh, bà Hừu mới 30 tuổi, nhưng đã ở vậy thờ chồng, nuôi các con khôn lớn mà không đi bước nữa. Bà đã thay chồng nuôi dạy cho 5 người con (2 trai, 3 gái) trưởng thành. Có 2 con đi bộ đội (trong đó một người là Thương binh trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam năm 1978) và người con trai cả Lê Văn Hòa gia nhập lực lượng Công an nhân dân 20 năm, sau đó chuyển ngành sang Ban Nội chính Trung ương (hàm Vụ trưởng) trước khi nghỉ hưu. Như bao người phụ nữ Việt Nam khác trong kháng chiến, bà Hoàng Thị Hừu thật sự là một người vợ, người mẹ vĩ đại, với sự hy sinh và cống hiến thầm lặng, rất xứng đáng được tôn vinh.

Nhã Nam, 11/10/2025

TTNL