Giáo sư Đào Duy Anh: Hành trình từ chí sĩ cách mạng đến học giả uyên bác

Giáo sư Đào Duy Anh (Bút danh: Vệ Thạch), sinh ngày 25 tháng 4 năm 1904 tại Thanh Hóa. Nguyên quán là làng Khúc Thủy, tổng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (nay là huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội).

Ông từng là Tổng Bí thư của Đảng Tân Việt, một trong 3 tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã bị đế quốc Pháp bắt năm 1929, ra tù hoạt động nghiên cứu lịch sử, văn hóa dân tộc bằng phương pháp khoa học mới của thời đại để sớm truyền bá tư tưởng yêu nước, chủ nghĩa Mác - xit cho nhân dân. Ông đã cùng với cụ Huỳnh Thúc Kháng, Võ Nguyên Giáp trực tiếp làm báo Tiếng Dân và mở Quan Hải tùng thư ở Huế. Ông là nhà sử học, địa lý học, từ điển học, ngôn ngữ học, nhà nghiên cứu văn hóa, tôn giáo, văn học dân gian nổi tiếng và được xem là người mở đầu cho nhiều chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn ở Việt Nam. Suốt cuộc đời, từ hoạt động cách mạng sôi nổi đến hoạt động khoa học tận hiến với khát vọng cống hiến lớn lao cho dân cho nước, ông đã để lại một di sản học thuật đồ độ. Ông mất ngày 01 tháng 04 năm 1988 tại Hà Nội.

Trưởng thành trong một gia đình đại trí thức yêu nước

Giáo sư Đào Duy Anh sinh ra và lớn lên trong một gia đình trí thức yêu nước và dấn thân đi làm cách mạng. Cụ thân sinh ra Giáo sư Đào Duy Anh là cụ Đào Đình Diệp làm thông lại ở Nông Cống, huyện Thanh Hóa. Cụ ông mất sớm, cụ bà Nguyễn Thị Hòe về ngụ trong chùa Vĩnh Thái, nơi cưu mang nhiều cán bộ hoạt động trước cách mạng, trong đó có đồng chí Nguyễn Văn Linh, nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam. Khi mới có bằng Thành Trung, Giáo sư Đào Duy Anh đã đi dạy học ở Đồng Hới để đỡ gánh nặng cho mẹ và nuôi các em ăn học. Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, các em ruột của Giáo sư Đào Duy Anh đã hy sinh chịu đựng trong lao tù đế quốc.

Trong thư gửi Ban Tổ chức Trung ương Đảng (1992), ông Đào Phan (tức Đào Duy Dếnh) kể về quá trình hoạt động cách mạng của những người em ruột Giáo sư Đào Duy Anh: Anh Đào Duy Phiên bị Pháp bắt năm 1940 do tham gia phong trào chống Pháp ở Sài Gòn, bị đày ra Côn Đảo năm 1945 mới được về; Anh Đào Duy Liên (cùng cha khác mẹ) bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt tại Sài Gòn năm 1956, đày ra Côn Đảo 5 năm vì tội chống ngụy quyền và đế quốc Mỹ; Chị Đào Thị Quyền và chồng là anh Đào Văn Lan đã hoạt động bí mật cho Đảng Cộng sản Đông Dương ở Hải Phòng (1936-1939), ở Sài Gòn năm 1940 là cơ sở của đồng chí Mười Cúc - Nguyễn Văn Linh và các đồng chí khác ngay lúc Nam Kỳ khởi nghĩa; Anh Đào Duy Kỳ là trí thức hoạt động tuyên truyền, báo chí, huấn học cho Đảng Cộng sản Đông Dương từ 1935, Quyền Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ năm 1941-1942, đã bị Pháp bắt tù Hỏa Lò (Hà Nội) và đày ra Côn Đảo và vợ là chị Trần Thị Minh Châu, cựu Bí thư Liên tỉnh Hà Đông - Hưng Yên thời hoạt động bí mật, đã trực tiếp chỉ huy Đội Du kích Bắc Sơn, rồi tham gia Ủy ban khởi nghĩa ở Tân Trào (Tuyên Quang) 1944-1945; Em Đào Thị Đính hoạt động bí mật ở Thừa Thiên - Huế bị Pháp bắt năm 1940 giam tại nhà tù Thừa Thiên, tham gia Ủy ban khởi nghĩa tháng 8/1945 ở Huế. Là Tỉnh ủy viên tỉnh Thừa Thiên Huế, Trưởng ban Tổ chức Hội Phụ nữ Trung ương…". Về cá nhân mình, ông Đào Phan viết: "Xuất phát từ nhân cách một chiến sĩ đi làm cách mạng từ năm 16 tuổi, đã từng làm Bí thư Thành ủy Huế năm 1937 và Bí thư Ban Cán sự Đảng bộ Hà Nội (Bí thư Thành ủy) trong thời kỳ Đảng còn hoạt động bí mật, đã từng bị Pháp bắt giam 2 lần tại các nhà tù Thừa Thiên năm 1938-1939, Phan Rang năm 1939-1940, Hỏa Lò - Sơn La năm 1942-1943, Côn Đảo năm 1944-1945".

Bà Trần Thị Như Mân, phu nhân của Giáo sư Đào Duy Anh vừa là người đồng chí cùng hoạt động cách mạng vừa là người trợ lý đặc biệt của học giả Đào Duy Anh. Bà sinh năm 1907, là cháu nội của cụ Trần Tiễn Thành, Thượng thư bộ Binh triều Tự Đức, Văn Minh điện đại học sĩ, phụ chính đại thần sau khi vua Tự Đức qua đời, là người đã bảo trợ các nhà cải cách Nguyễn Trường Tộ và Nguyễn Lộ Trạch, giới thiệu họ với nhà vua. Bà là con của Giải nguyên Trần Tiễn Hối, Tổng đốc Nghệ An. Năm 1925, khi đang làm giáo viên trường nữ trung học Đồng Khánh thì được tin cụ Phan Bội Châu bị Pháp bắt ở Thượng Hải, bị dẫn độ về nước, và bị tòa đề hình Hà Nội kết án tử hình, bà cùng với một số bạn đồng nghiệp cùng chí hướng đánh điện cho Toàn quyền Varenne xin ân xá cho cụ Phan. Sau đó, bà cùng mẫu thân của nhà báo Hải Triều, lập Nữ công học hội là tổ chức xã hội phụ nữ đầu tiên của nước ta ở Huế. Tại đây, cụ Phan Bội Châu, bấy giờ bị Pháp an trí ở Huế, ủng hộ và đến nói chuyện về phong trào phụ nữ trên thế giới. Sau khi ra khỏi nhà tù thực dân vì tham gia những phong trào yêu nước, bà tham gia các hoạt động nghiên cứu cùng học giả Đào Duy Anh. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 với uy tín của mình, bà được mời làm hội trưởng Hội Phụ nữ Thừa Thiên Huế và trải qua nhiều vị trí công tác khác tại Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam cho đến ngày nghỉ hưu.

Cho đến nay, các con, cháu chắt và các thế hệ hậu duệ của Giáo sư Đào Duy Anh đều phát huy truyền thống của một gia đình trí thức yêu nước, suốt đời phấn đấu học tập, cống hiến phụng sự Tổ Quốc và đồng hành với vận mệnh dân tộc. Tiêu biểu phải kể đến người con trưởng của ông là Giáo sư, Viện sĩ, Anh hùng lao động Đào Thế Tuấn (1931-2011) là một nhà nghiên cứu đầu ngành về nông nghiệp, nông thôn Việt Nam. Ông là tác giả của nhiều công trình nghiên cứu khoa học có giá trị, nhiều bài viết được các báo, tạp chí trong và ngoài nước xuất bản. Từ năm 6 tuổi, ông Đào Thế Tuấn đã gia nhập Hướng đạo sinh, rồi Thiếu sinh Lê Lai đi theo các huynh trưởng hướng đạo như các ông Hoàng Đạo Thúy, Tạ Quang Bửu...Tháng 5 năm 1950, ông Đào Thế Tuấn gia nhập quân đội, công tác ở Bộ Tổng tham mưu, lúc đầu thuộc Cục Tình báo, sau chuyển về ban bí thư của phó Tổng Tham mưu trưởng, chiến đấu ở bộ phận tham mưu tiền phương các chiến dịch Trần Hưng Đạo ở Trung Du và Hoàng Hoa Thám ở Đông Bắc. Năm 1953, Đào Thế Tuấn khi được nằm trong số 50 thanh niên cử đi Liên Xô học. Sau về công tác trong ngành nông nghiệp đến khi nghỉ hưu. Ghi nhận công lao to lớn của Giáo sư, Viện sĩ Đào Thế Tuấn trong sự nghiệp khoa học và những đóng góp thiết thực cho sản xuất nông nghiệp, Đảng, Nhà nước và quốc tế trao tặng ông Huân chương Chiến thắng Hạng Ba, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ Hạng Nhất, Huân chương Lao động Hạng Hai, Huân chương Công trạng Nông nghiệp của Pháp. Năm 2000 được trao danh hiệu Anh hùng Lao động Xã hội Chủ nghĩa, năm 2005 được Giải thưởng Hồ Chí Minh. Ngoài ra ông còn được thưởng các Huân chương Sĩ quan Công trạng Nông nghiệp, Sĩ quan Cành cọ Hàn lâm và Giải thưởng Rene Dumont. Nhưng đối với ông, vinh dự to lớn nhất là sự biết ơn của đông đảo nông dân Việt Nam, là tình cảm quí trọng của các lớp cán bộ, học sinh, đồng nghiệp. Tên của Giáo sư Đào Thế Tuấn được đặt cho một con phố mới tại quận Long Biên, thành phố Hà Nội năm 2022. 

Từ chí sĩ cách mạng đến học giả uyên bác

Để tìm hiểu về hành trình từ chí sĩ cách mạng đến học giả uyên bác của Giáo sư Đào Duy Anh chúng tôi đã tìm đọc cuốn Hồi ký “Nhớ nghĩ chiều hôm”, bài viết “Tôi đã theo cách mạng và phục vụ Tổ Quốc như thế nào?” được Giáo sư Đào Duy Anh viết ngày 29 tháng 12 năm 1970 và đối chiếu với những tư liệu về Giáo sư Đào Duy Anh đang được lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia III, cùng như nhiều tài liệu được công bố tại Hội thảo kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Giáo sư Đào Duy Anh (1904 - 2004).

Theo đó, một sự kiện làm xoay chuyển cuộc đời Giáo sư Đào Duy Anh vào năm 1925, lần đầu tiên, ông được tiếp xúc với cụ Phan Bội Châu, nhà chí sĩ cách mạng, bị chính quyền thực dân giải qua Đồng Hới về an trí ở Huế. Với hào khí của cụ Phan, ôm trí lớn, mong vượt biển khơi đã thúc dục chàng thanh niên Đào Duy Anh phải thoát ngay khỏi chốn ao tù để tìm nơi trời cao biển rộng. Ông quyết chí lên đường vào Nam, hành nghiệp làm báo. Đào Duy Anh viết trong hồi ký: "Trên đường vào Nam, tôi ghé lại Huế, mong yết kiến cụ Phan Bội Châu mà cả nước bấy giờ đều xem là linh hồn của chủ nghĩa yêu nước. Tấm lòng yêu nước của cụ Phan chói lọi một vầng nhật nguyệt". Hình ảnh ông già Bến Ngự được nhân dân yêu thương, nhắc nhở nam nữ thanh niên, học sinh các trường Đông Khánh, Quốc học và Bách Công luôn đến thăm cụ để nghe cụ nói chuyện và khuyên nhủ. Nhớ đến cụ Phan Bội Châu, Giáo sư Đào Duy Anh viết: "Tôi có cái cảm giác rằng, mặc dầu công cuộc vận động cách mạng của cụ đã hoàn toàn thất bại, như cụ thường nhắc, cụ vẫn ngồi đấy nghiễm nhiên như cầm ngọn đuốc yêu nước để chờ trao tay cho thế hệ thanh niên bấy giờ, đương loay hoay tìm đường cứu nước, cứu dân". 

Một trong những thời kỳ hăng say sôi nổi nhất của Giáo sư Đào Duy Anh là thời làm báo Tiếng Dân với cụ Huỳnh Thúc Kháng tại Huế, cụ Huỳnh là một nhà nho có tiếng ở Quảng Nam. Nhớ đến lời cảm thán của cụ Đào Duy Anh viết trong hồi ký: "Tờ báo Tiếng Dân mà ra đời được thuận tiện là nhờ sự giúp đỡ nhiệt tình, vô tư và dân cảm của bao người. Thời làm báo Tiếng Dân, người sớm giác ngộ". Ông viết ở đây: "Tôi chỉ muốn nhấn mạnh cái khía cạnh chủ đạo là sự diễn biến tư tưởng của tôi từng bước đi vào chủ nghĩa Mác để lấy nó làm cái kim chỉ nam hướng dẫn mọi hoạt động của tôi trong lĩnh vực văn hóa".

Như những cánh chim vượt biển, ông cùng các đồng chí lập nhà xuất bản Quan Hải Tùng Thư để phổ biến cho thanh niên những kiến thức về chủ nghĩa Mác và kiến thức mới về khoa học. Ông lấy bút hiệu là Vệ Thạch, với ý nguyện làm con chim Tinh Vệ suốt đời ngậm đá lấp Biển Đông, lấp đầy cái bể học mênh mông của đất trời.

z5391463467817-b265a6b9e464cfe238da626e63fa3156-1714298409-1714301887-3-1714873714.jpg Quang cảnh Hội thảo Kỷ niệm 120 năm ngày sinh Giáo sư Đào Duy Anh (1904 - 2024)

Giáo sư Đào Duy Anh từng chia sẻ: "Khoảng mùa thu năm 1927, khi tôi phụ trách công việc thư ký tòa soạn của báo Tiếng Dân bắt đầu xuất bản thì tôi được Đảng giao cho trách nhiệm lấy danh nghĩa cá nhân mà xuất bản Quan Hải tùng thư để hỗ trợ cho việc tuyên truyền cách mệnh. Tôi vừa được đọc những tài liệu tuyên truyền và huấn luyện cách mệnh mới do Tổng bộ của Đảng gửi cho, trong ấy quan trọng nhất là tập sách in thạch đề là Đường cách mệnh gồm những bài giảng của lớp huấn luyện cán bộ do Việt Nam [thanh niên] cách mệnh Đồng chí hội tổ chức ở Quảng Châu, nên tôi đã được hiểu thêm nhiệm vụ cách mệnh quốc gia và nhiệm vụ cách mệnh thế giới kết hợp nhau như thế nào. Sau một năm đọc một cách tranh thủ thời gian những sách chữ Pháp và chữ Hán tôi kiếm được ở Sài Gòn và Chợ Lớn, tôi đã nhận thấy rằng phương pháp, tư tưởng và chủ trương cách mệnh của chủ nghĩa Mác đã giúp tôi giải quyết được hầu hết những vấn đề về nhân sinh quan và về chính trị tôi tự đặt cho mình mà các thuyết khác, từ các triết học của Đông phương như Nho giáo, Phật giáo, đến các học thuyết cách mệnh dân chủ của Tây phương cũng như chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Văn không thể giúp tôi giải quyết được một cách thỏa đáng. Tôi bèn nghĩ rằng để chuẩn bị cho lớp thanh niên ta có điều kiện mà gần gũi với con đường cách mệnh do Đảng chủ trương thì phải làm sao dần dần khiến họ làm quen được với những tư tưởng sơ đẳng của chủ nghĩa Mác mà tôi cho là cái chìa khóa mở cửa tất yếu. Tôi bèn quyết định lợi dụng việc xuất bản hợp pháp mà gieo vào tâm trí của thanh niên ta một ít kiến thức sơ đẳng về chủ nghĩa Mác lẫn với một số kiến thức mới về khoa học, nhất là khoa học xã hội, với cái chiêu bài hợp pháp là mở mang trí thức".

Năm 1928, khi ở tuổi 24, chàng thanh niên Đào Duy Anh đã được bầu làm Tổng bí thư của Tân Việt Cách mạng Đảng, được giao nhiệm vụ viết luận cương chính trị của Đảng Tân Việt, là một trong ba đảng tiền thân của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Theo Giáo sư Văn Tạo, nguyên Viện trưởng Viện Sử học chia sẻ: “GS Đào Duy Anh là một trong những người đầu tiên viết sách tìm hiểu về chủ nghĩa Mác, viết sách về chủ nghĩa Mác, công bố sách đó. Mặc dù trong nhà tù Hòa Lò, quyển sách của ông bị hư hỏng, nhưng vẫn được đọc và truyền tay nhau bởi vì sách của ông dễ hiểu và dễ đọc. Một người tin vào Cách Mạng như, tin tưởng vào CNXH, lòng yêu nước của ông tỏa ra trong khoa họ tỏa ra trong khoa học cũng như trong cuộc sống đời thường”. 

Quan hải tùng thư học theo Đông phương văn khố của Trung Quốc ra những tập sách nhỏ chừng 100 trang trở xuống. Giáo sư Đào Duy Anh kể lại qua bài viết “Tôi đã theo cách mạng và phục vụ Tổ Quốc như thế nào?” được ông viết ngày 29 tháng 12 năm 1970:“Về nội dung thì tôi dựa theo kinh nghiệm học hỏi mà bản thân tôi đã trải qua để dựng nên một chương trình xuất bản trước mắt. Tôi nghĩ rằng với tư tưởng truyền thống của nhân dân ta là tư tưởng Nho giáo hoặc Tam giáo, cũng như với cơ sở tư tưởng duy tâm của Tây phương mà thanh niên ta hấp thụ được trên ghế nhà trường, người ta khó lòng đi thẳng đến tư tưởng duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác. Trước hết cần cho người ta làm quen với tư tưởng khoa học và tư tưởng duy vật, mặc dù là tư tưởng duy vật thông tục”. Thực hiện mục đích trên, chỉ trong một thời gian ngắn, Quan hải tùng thư đã xuất bản được một số sách tiến bộ, phần lớn là của Giáo sư Đào Duy Anh dịch, như các cuốn Lịch sử các học thuyết kinh tế, Phụ nữ vận động, Lịch sử nhân loại, hoặc biên soạn như: Tôn giáo là gì? Xã hội là gì? Dân tộc là gì? Những tập sách đó đều được biên soạn chủ yếu dựa vào các sách của Boukharin và Lênin... Và như vậy, tủ sách Quan hải của Giáo sư Đào Duy Anh đã góp một ngả đường đưa chủ nghĩa Mác vào Việt Nam. Quan hải tùng thư phải đình bản tháng 7-1929 khi Đào Duy Anh bị bắt, sau khi ra được 13 tập sách nhỏ.

Giáo sư Đào Duy Anh cùng với một số Đảng viên Tân Việt bị chính quyền thực dân bắt giam ở nhà lao Thừa Phủ, đến gần cuối năm 1930, ông mới được phóng thích với cái án treo 3 năm tù. Bấy giờ là lúc thoái trào cách mạng, cũng là một bước ngoặt trong cuộc đời Đào Duy Anh. Trong Nhật ký của mình, ông tự nhận xét mình đã thất bại ở con đường chính trị, dù rất hăng hái nhưng thiếu kinh nghiệm: “Tôi chỉ nên chuyên tâm vào nghiên cứu lịch sử và làm học thuật, góp phần phục hồi cái sinh khí của dân tộc đang bị lụi tàn dưới chế độ thống trị thực dân mà thôi".

Từ bỏ vào con đường chính trị mà ông từng sớm lựa chọn, dấn thân với tinh thần của một người chí sĩ cách mạng, ông chuyên tâm dạy học và viết sách, những người bạn cũ mở trường tư thục Thuận Hóa và trường công giáo Thiên Hựu mời ông Đào Duy Anh về giảng dạy. Trong bối cảnh tiếng Việt được sử dụng phổ biến hoàn toàn thay thế cho Hán tự, Giáo sư Đào Duy Anh biên soạn bộ Hán Việt từ điển, một bộ sách rất có giá trị thời bấy giờ. Cuốn từ điển đã được cụ Phan Bội Châu viết lời đề với những lời khích lệ đầy tự hào: “May mắn thay, gần đây gặp được người bạn thanh niên là Đào Duy Anh, vừa biên thành bộ Hán Việt từ điển, thấy chú thích tinh tường, phân giải minh bạch, tóm tắt hết từ ngữ thuộc về Hán Văn mà Việt Văn cần phải dùng đến cộng hơn bốn vạn điều”.

Nối tiếp thành công đó, ông tiếp tục soạn tiếp Pháp Việt từ điển, sách ra đời năm 1936, giữa lúc phong trào cách mạng nước ta đang phục hồi bước sang giai đoạn đấu tranh mới. Trong hoàn cảnh này, Pháp Việt từ điển đã được bạn đọc khắp nơi trong nước đòi hỏi, góp phần tích cực trong việc nâng cao trình độ văn hóa và hiểu biết của đồng bào.

Trong thời gian này, Giáo sư Đào Duy Anh đã viết nhiều bộ sách có giá trị quan trọng với Việt Nam. Việt Nam văn hoá sử cương là một trong những công trình quan trọng nhất của học giả Đào Duy Anh. Cuốn sách được biên soạn và xuất bản lần đầu năm 1938, là một nỗ lực giải quyết “cuộc va chạm” giữa văn hóa Việt Nam truyền thừa từ bao đời và văn hóa phương Tây du nhập lan tràn trong bối cảnh xã hội nước ta đầu thế kỷ XX. 

Đây là cuốn sách được coi là cuốn sách đầu tiên về văn hóa Việt Nam, và có mối quan hệ chặt chẽ với các nhóm trí thức, học giả ở Huế và cả nước. Nhà nghiên cứu Thân Trọng Ninh, một học trò cũ của Giáo sư Đào Duy Anh từng cho biết:  “Giáo sư Đào Duy Anh là nhà nghiên cứu dùng cái từ nhà cứu mà ở lĩnh vực nào cụ cũng có tham gia, viết về sử, viết về văn học, viết về ngoại ngữ, về tiếng Pháp, tiếng Trung Quốc, mấy ai mà thời kỳ ấy thì ở Huế chỉ có một Đào Duy Anh”.

Sẽ là một thiếu sót lớn nếu không nhắc đến những nghiên cứu của Giáo sư Đào Duy Anh về Truyện Kiều và thơ chữ Hán Nguyễn Du. Từ điển Truyện Kiều của Giáo sư Đào Duy Anh, một công trình ghi dấu được sự tiến bộ vượt bậc trong lịch sử của ngôn ngữ và văn học nước nhà. Nén hương tưởng niệm để nhớ đến tấm lòng thương cảm của thi hào với số phận con người trong một xã hội phong kiến bạo tàn. Trong hồi ký Đào Duy Anh đồng cảm xót xa với lời vang vọng của Nguyễn Du: "Bất tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như? 300 năm nữa mơ màng, hỏi xem ai có khóc chàng Tố Như". 

Cách mạng Tháng 8 đã bùng nổ và ngày 19 tháng 8 năm 1945 ở Hà Nội, chính quyền đã về tay nhân dân. Ngày mùng 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chủ tịch đã đọc bản tuyên ngôn độc lập “Nước Việt Nam có quyền tự do, độc lập và thực sự đã trở thành nước tự do, độc lập”. Ngày 23 tháng 8 năm 1945, lá cờ đỏ sao vàng tung bay trên phủ Văn Lâu, một thành phố Huế cách mạng đã ra đời. Trong những ngày đầu cách mạng, đột nhiên, cuối năm 1945, Đào Duy Anh có giấy gọi bị bắt giữ. Nhưng cách mạng cũng đã không quên những trí thức có tấm lòng trong sáng, trên đường ông bị giải ra ngoài Bắc, may mắn thay ông đã gặp lại Võ Nguyên Giáp, một học trò cũng là đồng chí cũ trong Đảng Tân Việt. Ông được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh, người có tấm lòng trân trọng với tầng lớp trí thức yêu nước có tài. Ông được Bác Hồ tiếp ở nhà khách Chính phủ, thăm hỏi về tình hình văn hóa nước nhà và mời tham gia xây dựng trường đại học mới.

Năm 1946, tình hình chính trị căng thẳng ở Hà Nội do giặc Pháp gây hấn, “chúng muốn cướp đất nước ta một lần nữa”, chiến tranh bùng nổ toàn dân bước vào cuộc kháng chiến gian khổ và oanh liệt kéo dài suốt 9 năm. Cuối năm 1946, Giáo sư cùng gia đình tản cư về Thanh Hóa, tham gia Hội Văn hóa kháng chiến và được bầu làm Chi Đội Trưởng giảng dạy các lớp văn hóa ở khu B.

Năm 1950, ông lên Việt Bắc tham gia thành lập Ban nghiên cứu Sử Địa trực thuộc Bộ Giáo dục. Đến năm 1952 lại trở về Thanh Hóa giảng dạy môn lịch sử ở trường Dự bị Đại học. Mảnh đất quê hương Thanh Hóa đã cưu mang nuôi dưỡng những thế hệ thầy trò Trường Dự bị Đại học, những năm kháng chiến một cuộc sống đơn sơ nghèo khó mà suốt đời không thể nào quên. Vượt qua những ngày ốm đau bệnh tật, thầy Đào Duy Anh đã dồn hết sức lực vào dạy học truyền lại cho thế hệ học sinh kháng chiến niềm say mê với lịch sử nước.

Sau Chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Genève năm 1954, gia đình Giáo sư Đào Duy Anh theo đoàn quân kháng chiến trở về Thủ đô giải phóng trong niềm vui phấn khởi, tràn đầy tin tưởng. Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, nay là Đại học Quốc gia Hà Nội, trong đó có trường Đại học Khoa học Xã hội Nhân văn được thành lập, giáo sư Đào Duy Anh được giao công tác giảng dạy, phụ trách bộ môn Lịch sử Việt Nam. Thành tựu không thể phai mờ được, với sự nghiệp đào tạo đại học của Giáo sư Đào Duy Anh ở khoa Sử chính là một người khai sáng, nhưng đồng thời người để lại một thế hệ, những thầy, những học trò, những học trò đồng nghiệp của mình, một định hướng rất đúng đắn. Đó là giảng dạy đại học gắn liền với nghiên cứu khoa học, thế hệ sau xứng đáng trở thành những người học trò xuất sắc của ông. Trong đó phải kể đến các Giáo sư: Đinh Xuân Lâm, Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng.

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn có một chiều dày lịch sử đào tạo trí thức và những nhân tài, trong số những bậc thầy tôn kính đầu tiên ấy, Giáo Sư Đào Duy Anh một học giả uyên bác với những công trình văn hóa đồ sổ như trong từ điển bách khoa Larruse của nước Pháp đã nhận định: “Đào Duy Anh nhà văn hóa Việt Nam hiện đại, nhà phê bình, nhà khảo luận và tác giả của nhiều bộ từ điển là một tên tuổi lớn trong các nhà bách khoa toàn thư”. Ông không chỉ là người có công tham gia mở đầu cho nền sử học mới, mà còn góp phần to lớn và việc đào tạo đội ngũ các nhà nghiên cứu sử học nổi tiếng hiện nay. Những tác phẩm của ông là những viên ngọc sáng trong kho tàng văn hóa lịch sử Việt Nam, sẽ còn nhiều thế hệ sau này tìm trong những tác phẩm của Đào Anh hành trang cần thiết để dấn bước trên con đường học tập những cột mốc mở đường của ông nhiệt tâm và nhân cách trí thức của ông vẫn còn lại mãi với mai sau. Trong đó có cuốn Lịch sử cổ đại Việt Nam của Giáo sư Đào Duy Anh đã được Viện khoa học Trung Quốc dịch in năm 1957 để lại nhiều kỷ niệm tốt đẹp trong cuộc đời học thuật của ông.

Trong không khí những năm đầu giải phóng Hà Nội, sức sống bền bỉ và ý chí quật cường bất khuất của dân tộc Việt Nam cuối cùng đã khôi phục được tự do độc lập. Trả lời phỏng vấn về vấn đề mở rộng tự do và dân chủ trong Giai Phẩm mùa thu năm 1956, ông viết “cái điều kiện cuối cùng mà không thể thiếu được để cho học thuật phát triển là tự do tư tưởng, tự do thảo luận”.

Bài báo đó khiến ông liên quan vào vụ Nhân Văn Giai Phẩm, ông buộc phải thôi giảng dạy ở trường Đại học Tổng hợp. Suốt hai năm chờ đợi để được bố trí công tác là một thời kỳ khó khăn trong cuộc đời ông cả về sinh kế và nhân tình thế thái. Theo Nhà sử học Đào Thế Hùng, con trai Giáo sư Đào Duy Anh: “Sau khi cũng bị kỷ luật vì cái vụ Nhân Văn Giai Phẩm thì lúc đó tôi cũng đang ở cạnh cụ ở chung trong nhà cùng vì hồi đó tôi đang học ở đại học, thì tôi đã chứng kiến tất cả cái sự xa lánh của những người bạn bè cũ và học trò cũ nói là hồi đó thì ai cũng sợ cả, tất cả những học trò mà thân thiết của cụ không ai dám bước chân đến nhà. Thậm chí trong những bạn bè những người lâu nay vẫn kính trọng nhau, thế nhưng mà có những người khi mà phê phán thì cũng lên tiếng đao to búa lớn để phê phán cụ tôi, thậm chí còn dựng đứng những cái điều mà không có thật để mà phê phán cụ tôi cho nên điều ấy đã làm cho cụ tôi rất phiền lòng và mới nghĩ đến cái nhân tình thế thái hay đổi như vậy cũng đáng buồn”.

Năm 1960 ông về nhận công tác tại viện sử học làm công việc hiệu đính các bản dịch Hán văn, tự chọn đề tài nghiên cứu lịch sử thời gian này ông làm việc trong hoàn cảnh đơn độc. Ông Viện trưởng Trần Huy Liệu căn dặn “Nên chọn đề tài nào hiền lành thì hơn”. Tìm vào kho sách của Viện Sử học nơi, còn lưu giữ nhiều tác phẩm của ông, trong thời kỳ này sách của ông là một gia tài quý giá. Làm công tác hiệu đính ông có dịp tiếp xúc với những anh hùng hào kiệt của dân tộc: Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Lê Quý Đôn, Trịnh Hoài Đức qua những trang sách cổ.

Trong hồi ký và những bài viết có liên quan, Giáo sư Đào Duy Anh chia sẻ về những trăn trở cuối đời của mình: "Tôi thấy các tác phẩm văn học cổ điển Nôm của ta hiện nay được dạy ở các trường đại học và phổ thông, trừ Chinh phụ ngâm ra, chưa có tác phẩm nào được khảo chứng cẩn thận để tìm một văn bản đúng đắn, cho nên những bài, những sách được đem dạy rất là linh tinh, có khi đầy những sai lầm ấu trĩ. Sách Hoa Tiên ký và sách Truyện Kiều đã được xuất bản có chú thích khảo chứng, nhưng cách làm cũng còn nhiều thiếu sót chưa bảo đảm được yêu cầu khoa học. Văn học cổ điển bằng tiếng mẹ đẻ là một bộ mặt của văn hóa dân tộc, chúng ta không thể để cho nó ở trong tình trạng bừa bãi như thế, khiến học sinh phải học những bản có thể nói là chưa xứng đáng với thanh danh của dân tộc ta. Buồn bã trước tình hình ấy, mà chẳng biết làm thế nào, cuối cùng tôi quyết định dùng những năm tháng cuối cùng còn làm việc được để cố gắng góp công vào sự bổ cứu tình hình ấy. Tôi đã định một kế hoạch khảo chứng và chú giải những tác phẩm cổ điển Nôm để lập thành những văn bản tương đối chính xác và được chú giải theo phương pháp khoa học. Theo tác phong vốn có của tôi, tôi thấy việc cần thiết mà mình có thể làm được thì cứ làm chứ không chờ ai đòi hỏi cụ thể. Vì là công việc cũng khá phức tạp, trong khi làm cố nhiên là tôi phải tranh thủ sự giúp đỡ của những người tôi thấy là cần. Đây là một cái mộng tôi đã từng ôm ấp trong cuộc hợp tác không thành với cụ Nguyễn Văn Tố mà tôi nhắc đến trên kia, ngày nay về già may ra có thể thực hiện được một phần nào. Mỗi tác phẩm làm xong, tôi sẽ trình với Ban Hán Nôm để xin góp ý kiến cho tôi sửa chữa kỳ cho đạt đến một văn bản có chú giải xứng đáng với trình độ khoa học ngày nay. Hiện nay sức một ngày một suy, chưa biết sẽ có thể thực hiện kế hoạch ấy đến chừng mực nào, tôi chỉ biết chắc rằng giữa lúc nước nhà đương cần sự đóng góp của mọi người để xây dựng tương lai, tôi cũng sẽ góp hết sức mình cho đến hơi thở cuối cùng, mặc dầu tôi biết rằng những bước cuối cùng của tôi trên đường đời không phải là đã hết chông gai...".

Di sản học thuật Đào Duy Anh

Đến nhà B6 Kim Liên ở quận Đống Đa, thành phố Hà Nội, nơi ở cuối cùng của Giáo sư Đào Duy Anh, cho đến khi qua đời. Phòng khách ngày nay khác xa với cảnh làm việc đơn sơ trật trội của cụ Đào ngày xưa, cửa sổ trông xuống sân chung của khu tập thể vẫn còn trong mắt ai, một khoảng mây trời. Hàng xóm của cụ ngày xưa bây giờ đã là những khách vắng nhà, ở đâu kia hình bóng của nhà triết học Trần Đức Thảo, của giáo sư Cao Xuân Huy, nhà đạo học số 1 Việt Nam. Những lúc thư nhàn, cụ đạp xe đi thăm chùa, chiền, về thăm vườn Mai Đông Mỹ cùng với các bạn già, các cụ già đây đã ra người thiên cổ, mà vẫn nghe đâu đó câu thơ vui vẻ “Hoa quý còn mong sinh quả quý, thanh mai để đợi nắng hè”.  Hình ảnh Giáo sư Đào Duy Anh còn đọng lại trong tâm trí người thân và bạn bè là một ông già râu tóc bạc phơ, với cây ba tong ngày ngày đi dạo, xếp hàng mua thực phẩm tại Vân Hồ, rồi cặm cụi viết sách. Cả đời ông chỉ có sách và những kỳ vật nhỏ bé của mình để lại cho con cháu, nhưng trí tuệ và nhân cách làm người của ông mãi là tài sản quý giá dành cho tất cả mọi người. Cuối đời, ông cụ gặp nhiều khó khăn trong việc in sách, tất cả bản thảo viết ra, ông đem gửi Trung tâm lưu trữ quốc gia, nhưng mong có người nào đó sau này sử dụng. 

Trong suốt quá trình hoạt động khoa học của mình, Giáo sư Đào Duy Anh đã có rất nhiều công trình đã được xuất bản và tái bản qua các thời kỳ, tiêu biểu như: Hán - Việt từ điển (1932); Pháp - Việt từ điển (1936); Việt Nam văn hóa sử cương (1938); Khổng giáo phê bình tiểu luận (1938); Trung Hoa sử cương (1942); Khảo luận về Kim Vân Kiều (1943); Lịch sử Việt Nam (giáo trình đại học, 1956); Cổ sử Việt Nam (giáo trình đại học, 1956); Lịch sử cổ đại Việt Nam (1957) gồm 4 tập: "Nguồn gốc dân tộc Việt Nam", "Vấn đề An Dương Vương và nhà nước Âu Lạc", "Văn hóa đồ đồng và trống đồng Lạc Việt", "Giai đoạn quá độ sang chế độ phong kiến"; Vấn đề hình thành của dân tộc Việt Nam (1957); Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX (2 tập, 1958); Đất nước Việt Nam qua các đời (1964); Từ điển Truyện Kiều (viết xong năm 1965, xuất bản năm 1974); Chữ Nôm, nguồn gốc, cấu tạo và diễn biến (1975)... Ngoài ra, ông còn hiệu đính, biên dịch, chú giải: Lịch triều hiến chương loại chí(1961 - 1962); Đại Nam thực lục (1962 - 1977); Phủ biên tạp lục (1964); Đại Việt sử ký toàn thư (1967 - 1968); Đại Nam nhất thống chí (1969 - 1971); Binh thư yếu lược (1970); Gia Định thành thông chí; Nguyễn Trãi toàn tập (1969); Khóa hư lục (1974); Sở từ (1974); Truyện Hoa Tiên (1978); Thơ chữ Hán Nguyễn Du" (1988); Chú giải Kinh Thi, "Đạo Đức Kinh và học thuyết của Lão Tử"...

Đặc biệt, cuốn "Việt Nam Văn hóa Sử cương" được giới nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam coi là kim chỉ Nam. Trong lời tựa, ông viết “Cái bi kịch hiện thời của dân tộc ta là sự xung đột của những giá trị cổ truyền của văn hóa cũ ấy với những điều mới lạ của văn hóa Tây phương. Cuộc xung đột sẽ giải quyết thế nào, đó là một vấn đề quan hệ đến cuộc sinh tử tồn vong của dân tộc ta vậy. Nhưng muốn giải quyết thì phải nhận rõ chân tướng của bi kịch ấy, tức là một mặt phải xét lại cho biết nội dung của văn hóa xưa thế nào, một mặt phải nghiên cứu cho biết chân giá trị của văn hóa mới”. Tác phẩm Việt Nam văn hóa sử cương “cốt cống hiến một mớ tài liệu cho những người quan tâm về điều thứ nhất, là muốn ôn lại cái vốn văn hóa của nước nhà”. 

Theo ông, văn hóa tức là sinh hoạt, văn hóa là chỉ chung tất cả các phương diện sinh hoạt của loài người. Trước hết, muốn nghiên cứu văn hóa của một dân tộc phải xem xét dân tộc ấy sinh trưởng trong những điều kiện địa lý thế nào. Các điều kiện địa lý ấy có ảnh hưởng lớn đến cách sinh hoạt của con người, song con người cũng có thể dùng sức mình mà xử trí và biến chuyển những điều kiện ấy cho thích nghi với những điều cần thiết của mình. Cách sinh hoạt vì thế mà cũng biến chuyển và khiến văn hóa cũng biến chuyển theo. Với quan niệm đó, Giáo sư Đào Duy Anh đã cung cấp cái nhìn khái quát về điều kiện tự nhiên cũng như quá trình hình thành lãnh thổ, cộng đồng cư dân Việt Nam, đi sâu phân tích lịch sử của dân tộc Việt Nam qua các thời kỳ, các sự kiện lịch sử; khẳng định cộng đồng người Việt đã hình thành từ sự kết hợp các yếu tố bản địa và tiếp biến văn hóa từ bên ngoài. Từ đó làm cơ sở để ông đi sâu nghiên cứu văn hóa dưới các giác độ: Kinh tế sinh hoạt, xã hội và chính trị sinh hoạt, tri thức sinh hoạt.

Đến Trung tâm lưu trữ Quốc Gia III, chúng tôi tìm thấy, trong hơn 13 km giá tài liệu bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, bên cạnh khối tài liệu hành chính, tài liệu khoa học kỹ thuật và tài liệu nghe nhìn chiếm một tỷ lệ lớn, còn có khối tài liệu có nguồn gốc, xuất xứ từ các cá nhân, gia đình, dòng họ. Đây là những tài liệu được hình thành trong quá trình sống, hoạt động, lao động của gần 200 cá nhân, gia đình, dòng họ tiêu biểu, có nhiều đóng góp đối trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội Việt Nam…Khối tài liệu Giáo sư, nhà nghiên cứu Đào Duy Anh bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia III có giá trị trên nhiều phương diện góp phần làm phong phú thêm thành phần phông lưu trữ quốc gia Việt Nam. Trong đó, có nhiều tài liệu, quyết định liên quan đến quá trình công tác của ông, cũng như những tác phẩm, công trình của ông đã được xuất bản qua các thời kỳ như: Nghị định số 564/NĐ ngày 07/12/1950 của Bộ Quốc gia Giáo dục về việc cử các ông đảm nhiệm giữ chức vụ trong Ban Văn học Nghệ thuật, trong đó, Đào Duy Anh giữ chức Trưởng ban Sử Địa trong Ban; Nghị định số 608/NĐ ngày 28/12/1950 của Bộ Quốc gia Giáo dục về việc thiết lập một Hội đồng duyệt sách chung cho Nha Trung học và Nha Tiểu học, để duyệt các sách giáo khoa dùng cho các cấp học trường phổ thông, Đào Duy Anh là hội viên của Hội đồng; Nghị định số 21/NĐ ngày 23/01/1960 của Bộ Giáo dục, Ông được điều động về nhận công tác tại Viện Sử học thuộc Ủy ban Khoa học Nhà nước.

Tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III còn lưu trữ những di cảo của Giáo sư Đào Duy Anh là một khối tài liệu quý, đã được chỉnh lý, sắp xếp theo những nguyên tắc nghiệp vụ cơ bản áp dụng cho phông xuất xứ cá nhân, gồm 12 hồ sơ/đơn vị bảo quản, được đánh số từ 01 – 12, với gần 2000 tờ tài liệu, có những kích cỡ khác nhau, phần lớn là tài liệu gốc, bản chính, bản thảo viết tay, bản đánh máy có bút tích sửa chữa của Giáo sư. Có nhiều tài liệu bằng chữ Hán, Nôm các tác phẩm. Về nội dung, khối tài liệu của Giáo sư được phân loại và hệ thống hóa theo các nhóm và lập mục lục công cụ tra cứu phục vụ việc khai thác, sử dụng của độc giả một cách dễ dàng, gồm tài liệu về giáo trình, các công trình nghiên cứu và tài liệu biên dịch, chú giải. 

Tài liệu về giáo trình, công trình nghiên cứu gồm: Bản thảo viết tay cuốn khảo luận về Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (nhằm so sánh đối chiếu Truyện Kiều của Nguyễn Du với Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân ở Trung Quốc); Cuốn sách Lịch sử cổ đại Việt Nam (1957) gồm 4 tập: Nguồn gốc dân tộc Việt Nam, Vấn đề An Dương Vương và nhà nước Âu Lạc, Văn hóa đồ đồng và trống đồng Lạc Việt, Giai đoạn quá độ sang chế độ phong kiến, Tập san Đại học (Văn khoa), Hà Nội năm 1957 và bản được dịch sang tiếng Trung và xuất bản tại Trung Quốc năm 1959…

Tài liệu về biên dịch, chú giải gồm: Bản chép tay phần nguyên văn chữ Hán và bản viết tay, đánh máy tác phẩm “Kinh Thi" do Giáo sư, Nhà Sử học Đào Duy Anh chép, chọn lọc, phiên dịch và chú giải; Bản chép tay phần nguyên văn chữ Hán tác phẩm “Đạo Đức Kinh" và Bản viết tay, đánh máy tác phẩm “Đạo Đức Kinh” của Lão Tử, do Giáo sư, Nhà Sử học Đào Duy Anh phiên dịch và chú giải;  Bản viết tay phần nguyên văn chữ Hán 100 bài thơ Đường; Bản thảo và bản đánh máy cuốn “Nguyễn Trãi Thân thế - Sự nghiệp - Văn chương” của Giáo sư, Nhà Sử học Đào Duy Anh năm 1973-1981; bản đánh máy cuốn “Trăm bài thơ Đường” do Giáo sư, Nhà Sử học Đào Duy Anh chọn lọc phiên dịch và chú giải năm 1972 (có bút tích của Giáo sư); Bản nháp phần phiên dịch sang tiếng Việt cuốn “Sở từ” của Khuất Nguyên; bản đánh máy cuốn “Nguyễn Trãi tuyển tập” do Giáo sư, Nhà Sử học Đào Duy Anh lựa chọn và chỉnh lý (có bút tích của Giáo sư); Bản dịch viết tay, đánh máy và ý kiến về một số văn kiện chính yếu của Nguyễn Trãi: Đại cáo Bình Ngô, Văn bia Vĩnh Lăng, Phú núi Chí Linh, Biểu tạ, do Giáo sư, Nhà Sử học Đào Duy Anh viết nhân dịp kỷ niệm 600 năm sinh Nguyễn Trãi…

Ngoài ra, còn những bài viết nghiên cứu, bài tham luận, báo cáo của Giáo sư tại các cuộc họp, hội thảo khác nhau được một số cá nhân sưu tầm, như: Bài nghiên cứu “Về sự hình thành các dân tộc Việt Nam”; “Núi Chí Linh và huyện Đỗ Gia trong cuộc chiến đấu của Lê Lợi” và “Chế độ Lang Đạo của người Mường ở Thanh Hóa” của Giáo sư Đào Duy Anh năm 1956, Báo cáo về vấn đề cải cách chữ Quốc ngữ của Đào Duy Anh, Bài viết của Giáo sư Đào Duy Anh về tập ảnh điêu khắc của tác giả Phùng Thị Cúc (tức Điềm Phùng Thị) năm 1974; Bài tham luận "Vị trí, vai trò và ảnh hưởng của Nho giáo trong lịch sử và Việt Nam" của GS. Đào Duy Anh, năm 1978…

Hiện nay, tất cả các bản thảo sáng tác và dịch thuật của Giáo sư Đào Duy Anh cho thấy ông là người có công rất lớn, đã đặt những viên gạch đầu tiên trong việc xây dựng nền Khoa học Xã hội và Nhân văn Việt Nam. Tìm hiểu những di sản của Giáo sư Đào Duy Anh là công việc của nhiều thế hệ ở Trung tâm lưu trữ Quốc gia III, còn nhiều di khảo của ông chưa xuất bản. Mục đích làm sách của ông là giúp cho người khác học, nên dù được in hay không, thì ông vẫn cứ làm, không đợi nhuận bút, không đợi nhà xuất bản nào đặt. Đó là tinh thần dâng hiến của một người suốt đời tận hiến vì học thuật.

Qua những công trình trên có thể thấy, lĩnh vực sử học là lĩnh vực ông dành nhiều tâm sức xuyên suốt cuộc đời. Ở ông nổi bật đó chính là tinh thần tự học, tự nghiên cứu, là lòng hăng say tích lũy tri thức, không ngừng bổ sung cập nhật, là ý thức tìm tòi, khám phá trong học thuật. Với tinh thần của một nhà nho yêu nước, tiếp xúc với những luồng tư tưởng canh tân và đứng trên lập trường của Chủ nghĩa Mác-xit, Giáo sư Đào Duy Anh coi lịch sử là phương tiện tốt nhất để thức tỉnh hồn dân tộc, đặc biệt là để nhận diện ở tầm học thuật vấn đề bức thiết khẳng định vị thế của Việt Nam trong nền sử học thế giới và khu vực.

Năm 2000, 12 năm sau ngày mất, Giáo sư Đào Duy Anh được Đảng và Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Khoa học và Công nghệ cho cụm công trình: Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX; Lịch sử cổ đại Việt Nam; Việt Nam văn hóa sử cương; Đất nước Việt Nam qua các đời. Tên ông đã được đặt cho nhiều trường học, đường phố ở thủ đô Hà Nội, ở các thành phố lớn như Thanh Hóa, Huế, thành phố Hồ Chí Minh, là sự tôn vinh với một nhà hoạt động cách mạng, một giáo sư, một trí thức, một nhà văn hóa lớn của đất nước trong thời đại Hồ Chí Minh. Cuộc đời ông là một hành trình đầy thử thách từ một chí sĩ cách mạng đến học giả uyên bác đẹp tựa như một đóa sen thanh tao, dẫu ở trong hoàn cảnh nào vẫn vươn mình đứng thẳng hướng về phía ánh sáng của mặt trời, ánh sáng của chân lý để tỏa ngát sắc hương dâng đời, đúng như lời một bài hát: “Ngời tỏa sáng, sóng sánh sen càng xinh. Gom tinh hoa trời đất, đắp xây hồn dân tộc. Tỏa sáng ngàn năm, con cháu Lạc Hồng…” .

sen-1719290051.png
sen1-1719290051.png