Đánh giá của Chính phủ Thái Lan về tình hình nông nghiệp, khuyến nông thế giới và trong nước:
Tình hình thế giới: (i) Ứng dụng công nghệ hiện đại trong canh tác (1), sản xuất nông nghiệp đang làm thay đổi xã hội nông thôn và hoạt động kinh tế nông nghiệp. Chuyển đổi kỹ thuật số được đẩy mạnh trong thời kỳ bùng phát đại dich Covid-19 mang lại nhiều cơ hội gắn phát triển kinh tế nông nghiệp trực tiếp với người nông dân; (ii) Nhu cầu về hàng hoá dịch vụ, thực phẩm lành mạnh phù hợp với xã hội già hoá cùng với nhận thức người tiêu dùng đối với các sản phẩm an toàn về sức khoẻ sau đại dịch Covid-19 ngày càng tăng đòi hỏi phải nâng cấp sản xuất nông sản, thực phẩm an toàn cũng như tăng cường quản lý sản xuất sau thu hoạch, đẩy mạnh chế biến và đóng gói sản phẩm; (iii) An ninh lương thực đối mặt với nhiều thách thức từ việc gia tăng dân số toàn cầu, các hiện tượng thời tiết cực đoan liên quan đến biến đổi khí hậu, bất ổn chính trị và các cuộc xung đột tại nhiều khu vực trên thế giới. Ngoài ra, đại dịch Covid-19 làm đứt gãy chuỗi cung ứng trong lĩnh vực nông nghiệp, cản trợ khả năng tiếp cận lương thực - thực phẩm cũng làm trầm trọng thêm về vấn đề an ninh lương thực; (iv) Quá trình đô thị hoá làm gia tăng hoạt động di cư từ khu vực nông thôn ra các đô thị, chuyển đổi cơ cấu ngành nghề khu vực nông thôn đòi hỏi phải nâng cao vai trò nông nghiệp trong tình hình mới: (v) Hoạt động thương mại quốc tế có nhiều thay đổi sau đại dịch Covid-19: Đề cao tư duy dân tộc chủ nghĩa, gia tăng các biện pháp bảo hộ mậu dịch để bảo vệ doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là các biệnpháp phi thuế quan như biện pháp vệ sinh môi trường, lao động, nhân quyền…
Tình hình trong nước: Đóng góp của ngành nông nghiệp trong tổng sản phẩm quốc nội tiếp tục giảm (2), tuy nhiên lao động nông nghiệp vẫn chiếm 30,2% tổng số việc làm; năng suất lao động nông nghiệp vẫn ở trình độ thấp so với các ngành khác; ngành nông nghiệp bộc lộ nhiều hạn chế cản trở việc tăng năng suất và giá trị gia tăng: (i) Tốc độ già hoá dân số nông thôn tăng nhanh, phần lớn chưa sẵn sàng tiếp nhận kiến thức và ứng dụng công nghệ hiện đại; (ii) Thương mại các sản phẩm nông sản bị chi phối bởi thương lái và doanh nghiệp lớn; (iii) Quản lý, khai thác tài nguyên nước tại nhiều nơi trên cả nước còn nhiều bất cập; (iv) Hỗ trợ của các tổ chức nông dân canh tác và kinh doanh thiếu hiệu quả, nhiều tổ chức chưa thực hiện đầy đủ chức năng hỗ trợ của mình.
Công tác khuyến nông trong nước: (i) Phối hợp trong triển khai chính sách nông nghiệp của chính phủ còn hạn chế, liên kết giữa công tư - chưa chặt chẽ, phân bổ ngân sách chưa phù hợp; (ii) Công cụ, trang thiết bị và phương tiện hỗ trợ công tác khuyến nông còn thiếu; (iii) Đội ngũ cán bộ tham gia công tác khuyến nông thiếu về số lượng, yếu về năng lực và kỹ năng giải quyết vấn đề cho nông dân, hạn chế về hoạt động; (iv) Một số quy tắc về hoạt động khuyến nông đã lỗi thời, chưa phù hợp với tình hình và thay đổi thực tế; (v) Cần đổi mới văn hoá làm việc của cán bộ khuyến nông trong điều kiện bình thường và trong giai đoạn khủng hoảng; (vi) Cần củng cố mạng lưới các trung tâm khuyến nông cơ sở, các đơn vị trực thuộc (4) để hỗ trợ hiệu quả hơn hoạt động nông nghiệp.
2. Về tầm nhìn, mục tiêu của Kế hoạch:
Về tầm nhìn: (i) Khuyến khích nông dân phát triển mạnh mẽ và tự lực; (ii) Thúc đẩy và phát triển năng lực sản xuất sản phẩm nông nghiệp dựa trên các nhà sản xuất dẫn đầu; (iii) Nâng cao chất lượng dịch vụ nông nghiệp để hỗ trợ nông dân, các nhà phân phối và các cơ quan liên quan; (iv) Thúc đây hiệu quả hoạt động khuyến nông trên tất cả các lĩnh vực.
Về mục tiêu: Hệ thống hoá các chính sách, chiến lược và kế hoạch từ trung ương tới địa phương, làm khuôn khổ cho hoạt động khuyến nông giai đoạn 2023-2027, náng cao chất lượng cuộc sống và thu nhập người nông dân với 3 mục tiêu cụ thể: (i) Nâng cao chất lượng cuộc sống và thu nhập người nông dân; (ii) Thúc đẩy hiệu quả hoạt động sản xuất nông nghiệp và nâng cao giá trị gia tăng trong nông nghiệp; (iii) Hình thành các tổ chức, doanh nghiệp nông dân hiệu quả, ngày càng phát triển.
Mục tiêu cụ thể: (i) Thu nhập nông dân tăng ít nhất 10%; (ii) Sản xuất nông sản đạt hiệu quả cao với giá trị gia tăng ít nhất 5%, sản lượng các mặt hàng nông sản quan trọng tăng không dưới 15%; (iii) Ít nhất 30% cộng đồng doanh nghiệp được tăng cường, trong đó có tối thiểu 20% nhóm tổ chức nông dân là nhóm thông minh, nông dân thông minh (5) và nông dân trẻ thông minh tăng thêm tối thiểu 211.500 người; (iv) Trên 80% nông dân cao tuổi được đào tạo nghề; (v) Giảm chi tiêu, tăng thu nhập cho tối thiểu 70% số hộ nông dân; (vi) Tối thiểu 10% tổ chức nông dân, nông nghiệp tăng thu nhập; (vii) Ít nhất 80% cán bộ tham gia công tác khuyến nông là “cán bộ thông minh” (6); (viii) Trên 25 quy trình, dịch vụ khuyến nông được áp dụng công nghệ số; mô hình chính phủ kỹ thuật số trong công tác khuyến nông đạt cấp độ 3 theo tiêu chuẩn Gartner…
- Về các giải pháp triển khai:
Để đạt được mục tiêu và tầm nhìn trên, Kế hoạch tập trung triển khai thực hiện 5 giải pháp trọng tâm: (1) Ổn định nghề nghiệp cho nông dân thông qua: (i) Thúc đẩy và phát triển sự nghiệp nông nghiệp ở khu vực biên giới phía Nam Thái Lan; (ii) Khuyến khích canh tác tổng hợp, nâng cấp sản xuất nông nghiệp; (iii) Nỗ lực giảm chi phí và tạo thu nhập nghề nghiệp ổn đinh cho các hộ gia đình, nâng cao khả năng làm chủ và phát triển bền vững của người nông dân; (iv) Hỗ trợ quá trình tư nhân hoá và phát triển của các tập đoàn trong sản xuất, tiếp thị sản phẩm nông nghiệp, tăng các kênh bán hàng qua biên giới…
(2) Đẩy mạnh hoạt động sản xuất và quản lý các sản phẩm nông nghiệp theo chuỗi giá trị: (i) Thúc đẩy nông nghiệp mang bản sắc địa phương, nông nghiệp an toàn nông nghiệp sinh học, nông nghiệp chế biến, nông nghiệp thông minh, phát triển hệ sinh thái nông nghiệp; (ii) Chuyển đổi mô hình canh tác lớn, tạo tiền đề tăng cường ứng dụng các thành tựu KHCN hiện đại trong sản xuất, góp phần chuyển đổi sang nền nông nghiệp hiện đại; (iii) Nâng cao hiệu quả sản xuất sản phẩm nông nghiệp quan trọng trong toàn bộ chuỗi cung ứng bằng cách xem xét tổng thể hoạt động từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ để xác định rõ mục tiêu và phương hướng phát triển từng sản phẩm; (iv) Hỗ trợ thúc đẩy phát triển tại các vùng kinh tế đặc biệt, phù hợp với từngvđịa bàn, tăng cường liên kết xây dựng mạng lưới nông dân mạnh, hoạt động hiệu quả; (v) Đẩy mạnh phát triển nông nghiệp thông qua mô hình kinh tế “xanh-tuần hoàn-sinh học” (BCG) bằng cách sử dụng giống có năng suất cao, giá trị kinh tế lớn, tận dụng đa dạng sinh học trong quá trình sản xuất, nâng cấp sản xuất bằng công nghệ; (vi) Đẩy mạnh đào tạo các chuyên gia về nông nghiệp, tăng cường nâng cao chất lượng trí thức địa phương cũng như thúc đẩy hợp tác quốc tế trong nông nghiệp…
(3) Tăng cường năng lực cá nhân, tổ chức cũng như cộng đồng nông dân: (i) Thúc đẩy triển khai các dự án, sáng kiến của chính phủ về phát triển nông dân khu vực; (ii) Nâng cao vai trò nông dân cao tuổi, chuẩn bị kịch bản để đội ngũ nông dân cao tuổi sẵn sàng bước vào xã hội già hoá trong nông nghiệp; (iii) Hình thành và phát triển tầng lớp nông dân trẻ trở thành nông dân thông minh, củng cố các tổ chức nông dân; (iv) Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực cho ngành nông nghiệp; (v) Mở rộng kết quả thúc đẩy nông nghiệp vùng và lập kế hoạch phát triển nông nghiệp cộng đồng; (vi) Phát triển và củng cố mạng lưới hỗ trợ công tác khuyến nông bao gồm: Mạng lưới tình nguyện viên nông nghiệp thôn bản (OCC), Trung tâm học tập nâng cao sản xuất nông sản (CSO), Trung tâm quản lý dịch hại, Trung tâm quản lý đất (NACC)… (vii) Đẩy mạnh công tác khuyến nông hỗ trợ nông dân bị ảnh hưởng bởi thiên tai…
(4) Thúc đẩy sản xuất thân thiện với môi trường: (i) Ngừng hoạt động đốt rơm, rạ trong canh tác tại khu vực nông thôn; chuyển giao kiến thức và thúc đẩy quản lý chất thải nông nghiệp; (ii) Điều chỉnh hành vi canh tác phù hợp với biến đổi khí hậu và các tình huống thiên tai khắc nghiệt trong tương lai; (iii) Nghiên cứu và mở rộng mô hình, phạm vi công tác khuyến nông phù hợp với môi trường của xã hội đô thị…
(5) Phát triển khả năng tổ chức, quản lý tập trung, tăng cường ứng dụng kỹ thuật số và phát triển cơ sở dữ liệu trong công tác khuyến nông: (i) Đổi mới phương pháp làm việc trong giai đoạn mới, số hoá quy trình làm việc, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu và kết nối với các bộ phận liên quan, thúc đẩy sử dụng công nghệ số trong tổ chức, sử dụng dữ liệu hiện có để hỗ trợ công tác lập kế hoạch phát triển nông nghiệp; (ii) Phát triển tiềm năng đội ngũ cán bộ thực hiện công tác khuyến nông tại tất cả các cấp, hình thành đội ngũ “nhân viên thông minh”, tạo cơ hội thăng tiến trong nghề nghiệp đối với đội ngũ này; (iii) Phát triển hệ thống khuyến nông theo hệ thống vận hành thông minh, điều chỉnh cơ cấu tổ chức phù hợp với tình hình mới; (iv) Đẩy mạnh nghiên cứu, nâng cao trình độ công tác khuyến nông, hỗ trợ nghiên cứu mô hình R2R (Routine to Research) trong công việc, sử dụng mô hình này như nền tảng thúc đẩy công tác khuyến nông dựa trên tri thức…
4. Nhận xét, đề xuất:
Nông nghiệp với gần 30% lực lượng lao động, đóng góp gần 10% GDP cả nước là một trong những ngành kinh tế quan trọng tại Thái Lan. Việc Chính phủ Thái Lan bắt đầu triển khai thúc đẩy công tác khuyến nông được đánh giá là biện pháp quan trọng nhằm đổi mới toàn diện ngành nông nghiệp, góp phần giải quyết khó khăn, thách thức mà ngành nông nghiệp của Thái Lan đang phải đối mặt. Đây cũng được coi là biện pháp hệ thống hoá chính sách, chiến lược, kế hoạch từ Trung ương tới địa phương của Thái Lan, làm khuôn khổ đổi mới hoạt động khuyến nông của cả nước, cải thiện thu nhập, chất lượng cuộc sống người nông dân, nâng cao hiệu quả quá trình sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp, đóng góp tích cực vào sự phát triển của nông dân, hợp tác xã và các doanh nghiệp khu vực nông thôn.
Đối với Việt Nam, công tác khuyến nông có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hỗ trợ nông dân đổi mới và phát triển sản xuất nông nghiệp, giúp đỡ nông dân tiếp cận và áp dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế, tăng thu nhập, góp phần thực hiện mục tiêu xoá đói giảm ngèo của Chính phủ. Những năm qua, công tác khuyến nông đã đóng góp tích cực vào tăng trưởng của ngành nông nghiệp nói chung và tăng trưởng kinh tế đất nước nói riêng, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia, góp phần đưa Việt Nam trở thành một trong những nước xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác khuyến nông của Việt Nam hiện vẫn tồn tại nhiều hạn chế: (i) Cơ chế chính sách hoạt động khuyến nông chưa đồng bộ, còn nặng về thủ tục hành chính; (ii) Hệ thống tổ chức khuyến nông còn thiếu đồng bộ từ Trung ương tới địa phương; (iii) Công tác khuyến nông còn nặng về chuyển giao kỹ thuật; chưa chú trọng đến yếu tố kinh tế, thị trường, liên kết theo chuỗi giá trị, quản lý chất lượng, truy xuất nguồn gốc, bảo vệ môi trường, cải thiện đời sống khu vực nông thôn, nâng cao năng lực người nông dân…; (iv) Nguồn lực đầu tư cho hoạt động khuyến nông còn hạn chế, chưa tương xứng với vị trí, vai trò của công tác khuyến nông; (v) Chương trình khuyến nông một vài nơi còn chưa mang tính bền vững; dạy nghề cho lao động nông thôn, vốn vay giải quyết việc làm còn chưa đáo ứng so với yêu cầu đặt ra; (vi) Năng lực cán bộ khuyến nông còn hạn chế, đặt biệt thiếu các kiến thức, kỹ năng quản lý, quản trị, chuyển đổi số… Bên cạnh đó, công tác khuyến nông cũng đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức cả trong và ngoài nước, đe doạ “đứt gãy” hệ thống khuyến nông, làm suy yếu tính liên kết bền vững.
Một vài cảm nhận ban đầu của Xích Lô
Có nhiều khái niệm tương đối mới và cách tiếp cận sâu hơnSử dụng trí tuệ nhân tạo - AI - để xây dựng chiến lược kinh doanh đáp ứng nhu cầu cụ thể của người tiêu dùng. Sử dụng công nghệ sinh học và Internet vạn vật - IoT - để nâng cao ngành nông nghiệp và thay thế công nhân và việc sử dụng công nghệ kỹ thuật số để cải thiện hiệu quả của dịch vụ chính phủ).
(2) Tình nguyện viên nông nghiệp thôn bản (OCC), Trung tâm học tập nâng cao sản xuất nông sản (CSO), Trung tâm quản lý đất cộng đồng (NACC), Trung tâm quản lý dịch hại cộng đồng…
(3) Doanh nghiệp cộng đồng, nông dân thông minh, nhóm hỗ trợ nông dân, nhóm phát triển nghề nghiệp nông nghiệp…
(4) “Nông dân thông minh”: là nông dân thành thạo hệ thống sản xuất trong từng lĩnh vực nông nghiệp, có khả năng phân tích, liên kết, quản lý sản xuất và tiếp thị bằng các dữ liệu để đưa ra quyết định sáng suốt…
(5) “Cán bộ khuyến nông thông minh”: là cán bộ khuyến nông có kiến thức, có chuyên môn theo một ngành nghề cụ thể, có khả năng truyền đạt kiến thức và chuyển giao công nghệ, minh bạch trong công việc, có khả năng điều phối và tương tác với các đối tác để tạo hiệu quả cao trong công tác.
2. Khái niệm khuyến nông đã được mở rộng: chuyển giao khoa học công nghệ từ sản xuất đến sau thu hoạch, liên kết với thị trường, hình thành các mạng lưới nhóm xã hội nghề nghiệp nông thôn, nâng cao năng lực nông dân cả nông dân lớn tuổi và nông dân trẻ sản xuất.
3. Mặc dù là Kế hoạch về đổi mới công tác khuyến nông nhưng đồng thời cũng gần như là định hướng đổi mới ngành nông nghiệp phù hợp xu thế mới.
4. Tư duy khuyến nông và kiến thức, kỹ năng, văn hoá của cán bộ khuyến nông quyết định cho sự thành công của công tác khuyến nông nói riêng và góp phần thành công trong chuyển đổi tư duy, mô hình nông nghiệp mới nói chung.
5. Nhiều mục tiêu đã được lượng hoá cụ thể, qua đó sẽ được đánh giá dễ dàng trong quá trình tổ chức thực hiện.
Rất mong mọi người đọc sâu, nghĩ kỹ để chúng ta cùng nhau hiện thực hoá Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững.
Thực trạng của nhiều nước trong đó có Việt Nam là giới trẻ không mặn mà với nghề nông, do lao động cực nhọc và thu nhập thấp. Đảm đương nghề nông hiện nay do người lớn tuổi phụ trách. Ngày 9/6 Thủ tướng Thái Lan Prayut Chan-o -cha chủ trì buổi ký kết cải cách gíao dục với tiêu đề “Nông nghiệp là một phần phát triển trẻ em Thái Lan trong thế kỷ 21”. Đào tạo “lớp nông dân trẻ 4 H” (head – hand – heart – health) “Thông minh, giỏi giang, khéo léo, mạnh mẽ”. Trước kia là Thanh niên 4 T (tâm – trí – tay – thần) của Tổng nha Khuyến nông. Tham gia ký kết có 12 Bộ trưởng: (1) Bộ Nông nghiệp và Hợp tác xã; (2) Bộ Lao động; (3) Bộ văn hóa; (4) Bộ Tài nguyên và Môi trường; (5) Bộ Du lịch và Thể thao; (6) Bộ Giáo dục; (7) Bộ Y Tế; (8)Bộ Nội vụ; (9) Bộ Phát triển Xã hội và An ninh Con người; (10) Bộ Kinh tế Kỹ thuật số và Xã hội; (11) Bộ Tư pháp; và (12)Bộ Giáo dục Đại học, Khoa học, Nghiên cứu và Đổi mới. Một chương trình cải cách giáo dục huy động đến 12 bộ tham gia. |