VIỆT NAM KHÁT VỌNG VƯƠN MÌNH:

Hành trình 80 năm ngoại giao với những bước đi đột phá

Hành trình 80 năm của ngành ngoại giao Việt Nam là một minh chứng sống động cho sự chuyển mình mạnh mẽ, từ một công cụ đấu tranh sang một động lực phát triển.

Kể từ khi thành lập vào ngày 28/8/1945, ngoại giao đã đóng vai trò tiên phong trong việc bảo vệ và xây dựng đất nước, góp phần tạo nên một Việt Nam có vị thế và tầm vóc quốc tế như ngày nay. 

Từ "hòa để tiến" đến "vừa đánh vừa đàm"

Ngay sau Cách mạng Tháng Tám, đất nước đứng trước tình thế "ngàn cân treo sợi tóc" khi phải đối phó với thù trong giặc ngoài. Ngoại giao, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là một mặt trận quan trọng song hành cùng chính trị và quân sự. Các nhà ngoại giao tiền bối đã thực hiện những "nước cờ ngoại giao mẫu mực" để bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, tránh đối đầu cùng lúc với nhiều kẻ thù.

img-6406-1756105724.jpeg
80 năm ngành Ngoại giao Việt Nam (28/8/1945 - 28/8/2025).

Điển hình là Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946 và Tạm ước ngày 14/9/1946 do Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp ký với Pháp. Đây là những quyết sách táo bạo, thể hiện sách lược "hòa để tiến", nhằm tranh thủ thời gian củng cố lực lượng và đưa đất nước thoát khỏi tình thế hiểm nghèo.

img-6407-1756105863.jpeg
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc. Người là Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời và Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên. (Ảnh tư liệu).

Bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đường lối ngoại giao chuyển sang mục tiêu huy động sự ủng hộ quốc tế, đặc biệt là sự chi viện của các nước xã hội chủ nghĩa. 

Việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc (1/1950), Liên Xô và các nước Đông Âu đã mở ra một "hậu phương lớn", giúp Việt Nam nhận được sự chi viện to lớn về vũ khí, lương thực và kinh nghiệm quân sự, tạo tiền đề vững chắc cho cuộc kháng chiến.

img-6409-1756106075.jpeg
Hội nghị Geneve 1954 bàn về lập lại hòa bình ở Đông Dương - Ảnh tư liệu

Thắng lợi của Hiệp định Geneva năm 1954, được ký kết sau chiến thắng Điện Biên Phủ, là minh chứng rõ ràng cho sức mạnh của ngoại giao trong việc chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình. Đây là văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên công nhận độc lập của Việt Nam.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ngoại giao tiếp tục là một mặt trận có ý nghĩa chiến lược, phối hợp chặt chẽ với quân sự và chính trị để tạo nên sức mạnh tổng hợp. Đường lối của Đảng ta là kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình và ủng hộ của bạn bè quốc tế. 

img-6410-1756106165.jpeg
Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam Nguyễn Thị Bình ký Hiệp định Paris, ngày 27/1/1973. Ảnh: Tư liệu

Nghệ thuật “vừa đánh, vừa đàm” đã đạt đến đỉnh cao, phối hợp nhuần nhuyễn giữa các chiến thắng trên chiến trường và ngoại giao để gây sức ép, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris năm 1973, tạo tiền đề quan trọng để nhân dân ta hoàn thành sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.

Phá thế bao vây và tìm kiếm nguồn lực

Giai đoạn từ năm 1976 đến 1986 là một trong những giai đoạn khó khăn nhất đối với Việt Nam. Đất nước phải đối mặt với hậu quả chiến tranh nặng nề, cùng với đó là sự bao vây, cấm vận về kinh tế và cô lập về chính trị từ Mỹ, các nước phương Tây và Trung Quốc. Trong bối cảnh đó, ngoại giao đã thể hiện sự sáng tạo và linh hoạt để phá vỡ thế gọng kìm này.

img-6411-1756106281.jpeg
Việt Nam tham gia phong trào không liên kết năm 1976.

Nhiệm vụ trọng tâm là củng cố và phát triển quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô, để tranh thủ sự giúp đỡ về kinh tế và kỹ thuật. Đồng thời, Việt Nam cũng mở rộng mặt trận ngoại giao ra các nước trong Phong trào Không liên kết, đặc biệt là Cuba và Ấn Độ. 

Những mối quan hệ này đã giúp Việt Nam nhận được sự hỗ trợ về kinh tế, lương thực và các nguồn lực cần thiết. Ngoại giao cũng đã tận dụng các mối quan hệ với một số nước phương Tây có thái độ cởi mở hơn, như Thụy Điển, để nhận viện trợ phát triển và mở rộng hợp tác trong một số lĩnh vực.

img-6412-1756106380.jpeg
Lễ thượng cờ Việt Nam tại trụ sở Liên hợp quốc năm 1977. Ảnh tư liệu 

Sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Liên Hợp Quốc năm 1977 mang ý nghĩa chính trị và pháp lý cực kỳ quan trọng, khẳng định tư cách đầy đủ của Việt Nam trên trường quốc tế. 

Những nỗ lực này không chỉ giúp Việt Nam vượt qua giai đoạn khó khăn mà còn đặt nền móng cho việc mở rộng quan hệ đối ngoại trong giai đoạn Đổi mới sau này.

Đường lối "ngoại giao cây tre"

Từ năm 1986, với đường lối Đổi mới, Việt Nam đã chuyển tư duy đối ngoại một cách chiến lược từ thế bị động sang chủ động. Đường lối mới nhấn mạnh “độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại” với mục tiêu trở thành “bạn, đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”.

img-6413-1756106439.jpeg
Việt Nam gia nhập ASEAN năm 1995. Ảnh tư liệu 

Trong gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới và hội nhập, Đảng ta đã chuyển đổi tư duy đối ngoại một cách chiến lược, từ thế bị động sang chủ động. Đường lối mới nhấn mạnh “độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại” với mục tiêu trở thành “bạn, đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”. 

img-6414-1756106572.jpeg
Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ năm 1995.

Quan điểm này, được thực hiện rõ nét qua việc Việt Nam nỗ lực ngoại giao bền bỉ cũng đã thúc đẩy việc ký kết Hiệp định Paris năm 1991 về giải quyết vấn đề Campuchia, tạo đột phá, góp phần khai thông quan hệ với các nước lớn như Trung Quốc, Hoa Kỳ và các tổ chức quốc tế. Việt Nam gia nhập ASEAN năm 1995 và đặc biệt là gia nhập WTO năm 2007, giúp Việt Nam hội nhập toàn diện vào nền kinh tế toàn cầu. Từ một quốc gia nghèo nàn, lạc hậu, Việt Nam đã trở thành một quốc gia đang phát triển năng động, với nền kinh tế lớn thứ 34 thế giới. 

img-6416-1756106663.jpeg
Việt Nam gia nhập WTO năm 2007. Ảnh tư liệu.

Hơn thế nữa, Việt Nam đã đảm nhận thành công nhiều trọng trách quốc tế quan trọng, nổi bật như Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an, Chủ tịch ASEAN, Chủ nhà Hội nghị cấp cao APEC, và cử cán bộ, chiến sỹ tham gia sứ mệnh gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc.

Đặc biệt, trong hơn một thập kỷ qua, Việt Nam đã thực hiện thành công đường lối ngoại giao cây tre. . Tức là có gốc rễ vững chắc (lợi ích quốc gia - dân tộc), thân tre cứng cáp (kiên định nguyên tắc) nhưng lại linh hoạt, uyển chuyển trước mọi biến động của thời cuộc. 

img-6418-1756106833.webp

Điều này đã giúp Việt Nam tạo dựng và củng cố một mạng lưới đối tác sâu rộng. Từ năm 2011 đến nay, Việt Nam đã nâng cấp quan hệ lên Đối tác chiến lược toàn diện với nhiều quốc gia, trong đó có hầu hết các nước lớn và các trung tâm chính trị-kinh tế hàng đầu thế giới.

Việc thiết lập các mối quan hệ này trong bối cảnh thế giới đầy phức tạp, cạnh tranh địa chính trị gay gắt đã chứng minh tính đúng đắn và hiệu quả của đường lối "ngoại giao cây tre". Việt Nam không phụ thuộc vào một đối tác nào, mà duy trì quan hệ cân bằng, hài hòa, vừa hợp tác vừa đấu tranh, từ đó tạo ra thế và lực mới cho đất nước.

Ngoại giao trong Kỷ nguyên mới

Sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể, khẳng định vị thế mới trên trường quốc tế qua các con số: Việt Nam hiện đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới; Mạng lưới đối tác của Việt Nam ngày càng mở rộng và sâu sắc. Đến nay, Việt Nam đã có 35 đối tác chiến lược và toàn diện, trong đó bao gồm tất cả các nước lớn và các trung tâm chính trị-kinh tế hàng đầu thế giới.

img-6419-1756106933.jpeg
Tổng Bí thư Tô Lâm và Tổng thư ký Liên Hợp Quốc  Antonio Guterres. 

Những nỗ lực này đã nhận được sự ghi nhận khách quan từ cộng đồng quốc tế. Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc Antonio Guterres đã đánh giá cao Việt Nam là một đối tác tích cực và có trách nhiệm, là cầu nối quan trọng giữa các nền kinh tế. Ông cũng nhận định ngoại giao Việt Nam đã cho thấy một quốc gia có thể vượt qua chiến tranh, thúc đẩy hòa bình và trở thành một trụ cột của chủ nghĩa đa phương. 

Giáo sư Carl Thayer và nhiều chuyên gia khác đều ấn tượng với "ngoại giao cây tre" của Việt Nam – một đường lối linh hoạt, khôn khéo, giúp đất nước giữ vững độc lập trong khi mở rộng quan hệ với các cường quốc.

Trong thư chúc mừng 80 năm Ngày thành lập ngành Ngoại giao, Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: "Ngoại giao - đối ngoại phải vươn lên tầm cao mới, thực sự là một trong những lực lượng trọng yếu, chiến lược trong bảo vệ đất nước từ sớm, từ xa". Ông nhấn mạnh ngoại giao không chỉ là công cụ bảo vệ chủ quyền, mà còn là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển.

img-6420-1756107104.jpeg
Lực lượng gìn giữ hòa bình của Việt Nam đã để lại dấu ấn trên trường quốc tế. Ảnh Tư liệu.

Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: Ngay từ những ngày đầu thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và trong suốt 30 năm kháng chiến chống xâm lược, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng ta và ánh sáng soi đường của Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, đối ngoại - ngoại giao là một trong những lực lượng đóng vai trò then chốt, tiên phong trong việc bảo vệ thành công chính quyền cách mạng non trẻ, đặt nền móng cho sự phát triển lâu bền của cách mạng Việt Nam. Mặt trận đối ngoại - ngoại giao luôn sát cánh cùng các mặt trận chính trị và quân sự, hình thành lực lượng tiên phong, mở ra thế trận vừa đánh vừa đàm, tranh thủ tối đa sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ quốc tế to lớn, kết hợp chặt chẽ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, góp phần quan trọng giành thắng lợi từng bước tiến tới thăng lợi hoàn toàn, non sông thu về một mối, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Sau khi đất nước thống nhất, đối ngoại - ngoại giao tiếp tục đi đầu, từng bước phá thế bao vây, cấm vận, thúc đẩy hội nhập quốc tế, mở ra cục diện đối ngoại thuận lợi, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi đường lối Đổi mới của Đảng. Với tinh thần phụng sự Tổ quốc, đối ngoại - ngoại giao đã góp phần xứng đáng vào việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng cơ đồ, tiềm lực, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước như ngày nay. Nhiều nhà ngoại giao Việt Nam xuất sắc tham gia đảm trách những vị trí quan trọng tại các tổ chức quốc tế, được ghi nhận và đánh giá cao.

img-6421-1756107259.jpeg
Dùng hình ảnh cây tre Việt Nam để làm biểu tượng, bản sắc ngoại giao Việt Nam là bởi cây tre có gốc vững, thân chắc và cành uyển chuyển. Gốc vững chính là thực lực của ta. Thân vững chính là lợi ích quốc gia dân tộc. Cành lá uyển chuyển là cách thức mà chúng ta ứng xử trong ngoại giao.

“Tôi tin tưởng rằng, với truyền thống đầy tự hào trong 80 năm qua, ngành Ngoại giao sẽ tiếp tục phát huy vai trò tiên phong trong chủ động, tích cực tranh thủ thời cơ, biến thách thức thành cơ hội, góp phần đắc lực vào việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược mà Nghị quyết Đại hội của Đảng đề ra. Đối ngoại - ngoại giao phải vươn lên tầm cao mới, thực sự là một trong những lực lượng trọng yếu, chiến lược trong bảo vệ đất nước từ sớm, từ xa, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không ngừng nâng cao uy tín, vị thế của đất nước, đóng góp hiệu quả vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa…”, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh. 

Những bài học kinh nghiệm 

Từ những thắng lợi vẻ vang của 80 năm qua, ngoại giao Việt Nam đã rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu. Nổi bật nhất là sự lãnh đạo tuyệt đối và trực tiếp của Đảng và việc kiên định với đường lối độc lập, tự chủ.

Bên cạnh đó là sự linh hoạt, thích ứng của "ngoại giao cây tre" và việc kết hợp chặt chẽ giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Từ đó có thể rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu cho giai đoạn mới:

Thứ nhất, kiên định với đường lối độc lập, tự chủ: Đây là nguyên tắc xuyên suốt, là kim chỉ nam giúp ngoại giao Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách. Bài học này khẳng định rằng mọi quyết sách đối ngoại đều phải dựa trên lợi ích cốt lõi của quốc gia - dân tộc.

Thứ hai, linh hoạt và thích ứng: Đường lối "ngoại giao cây tre" thể hiện sự linh hoạt, khôn khéo và khả năng thích ứng cao của ngoại giao Việt Nam trước những biến động của tình hình quốc tế. Chủ động đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ giúp chúng ta không phụ thuộc vào một đối tác nào, từ đó tạo ra thế và lực mới.

Thứ ba, lấy dân làm gốc: Ngoại giao phải phục vụ lợi ích của người dân, của doanh nghiệp, tạo môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ tư, sự lãnh đạo của Đảng: Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của Đảng là yếu tố quyết định mọi thắng lợi của công tác đối ngoại. Các chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng đã giúp ngành ngoại giao định hướng và hành động hiệu quả.

Thư năm, tăng cường sức mạnh tổng hợp: Ngoại giao chỉ thực sự mạnh khi có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban, bộ, ngành, địa phương và các kênh đối ngoại (đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân).

Ngoại giao đa phương sẽ tiếp tục đồng hành cùng đất nước, vững bước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, đúng như Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhắn nhủ: “Trong thời đại hiện nay, sự phát triển của đất nước luôn gắn bó, không thể tách rời với dòng chảy phát triển chung của toàn thể nhân loại. Phương thức ngoại giao hiệu quả đã được mình chứng qua lịch sử là kết hợp chặt chẽ giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại; phối hợp chặt chẽ, đồng bộ trên cả 3 trụ cột: đối ngoại Đàng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng…”.

img-6422-1756107385.png
Ngoại giao Việt Nam: 80 năm phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. 

Theo Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn, "mối quan hệ giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân là sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, tạo nên sức mạnh tổng hợp".

Chủ tịch nước Lương Cường đã khẳng định rằng Việt Nam luôn đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên hàng đầu, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế. "Lợi ích dân tộc phải hài hoà với lợi ích chung của cộng đồng quốc tế", Chủ tịch nước nhấn mạnh.

Trong kỷ nguyên mới, ngoại giao sẽ tiếp tục đóng vai trò tiên phong, đưa hội nhập quốc tế trở thành động lực và kiến tạo cơ hội phát triển mới cho đất nước, góp phần hiện thực hóa mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045.