Hồ sơ Số 30+31/2025: AI BIẾT THÂN NHÂN CỦA CÁC LIỆT SĨ PHẠM NGỌC DUYÊN, ĐỖ VĂN MỠ, HÀ DUY LỢI VÀ DƯƠNG MẠNH THÙY ?

1- Hồ sơ mã số F034605221709, bị thu giữ ngày 25/4/1969, từ thi thể của một chiến sĩ đã hy sinh, tại khu vực Suối Đá, huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh (tọa độ 48PXT554736 / 11.51762°N, 106.42491°E). Tài liệu dài 21 trang, có các bản viết tay và đánh máy, gồm giấy khen, ghi chú, sổ tay và thư từ cá nhân... Hai người có tên trong tài liệu là Đỗ Văn Mỡ và Phạm Ngọc Duyên, tương ứng thuộc các đơn vị hậu cần, bảo vệ, trinh sát…

Ông Đỗ Văn Mỡ là Tiểu đội trưởng trong đơn vị Bảo vệ B15 thuộc Đoàn 96 (còn gọi là F64, có thể là Trung đoàn Pháo binh 96). Hồ sơ cá nhân của ông còn cho thấy quá trình điều động từ Chiến trường B3 (Tây Nguyên) về miền Đông Nam Bộ, giúp xác định rõ khu vực hoạt động là Tây Ninh và Bình Dương. Còn ông Duyên phục vụ tại các đơn vị liên quan đến hòm thư dã chiến 62856 US và sau đó là 86555 YK/C4.

dt1dvh1q-1750995576.jpg
 
 

Đáng chú ý là báo cáo của Đỗ Văn Mỡ về việc ông đã bắn rơi một máy bay trực thăng của Mỹ vào ngày 6/1/1969 bằng 21 viên đạn súng bộ binh. Chiến công này đã mang lại cho ông hai Giấy khen từ chỉ huy Đoàn 96 và F64. Nếu đối chiếu với hồ sơ tổn thất máy bay của quân đội Mỹ đầu năm 1969 tại khu vực Tây Ninh, đặc biệt gần Suối Đá, thì thông tin này có thể giúp khoanh vùng vị trí xảy ra sự kiện và hỗ trợ xác định hài cốt, hoặc chứng tích chiến trường, liên quan lính Mỹ mất tích trong khu vực này (nếu có).

dt2dvh2d-1750995636.jpg
 

Các tài liệu liên quan đến ông Phạm Ngọc Duyên, bao gồm cuốn sổ tay đã viết 12 trang và tiểu sử cá nhân, ghi rõ ông nhập ngũ ngày 23/2/1968 tại tỉnh Nam Hà. Sau đó, ông được điều về huấn luyện trinh sát hoặc đào tạo cán bộ tại trường Sơn Lâm. Sổ tay của ông chứa các bài viết về tư tưởng Hồ Chí Minh và Trường Chinh, cho thấy nền tảng chính trị, ý thức hệ của cán bộ QĐNDVN trong thời kỳ này. Thông tin cá nhân của ông Duyên rất rõ ràng: xã Cộng Hòa, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Hà cũ. Liên quan đến ông Duyên còn có phong bì ghi địa chỉ người gửi: Phạm Văn Bốn, Công đoàn Mỏ “Thống Nhất”, thị xã Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, người nhận: Phạm Ngọc Duyên, hòm thư dã chiến số 62856 US.

dt3dvh3hb-1750995679.jpg
 

Phía Mỹ đã lập bản đồ, mô tả lộ trình hoạt động của Đỗ Văn Mỡ và Phạm Ngọc Duyên trong giai đoạn 1968 – 1969. Lộ trình hành quân của ông Mỡ cho thấy sự điều chuyển từ Chiến trường B3 (có thể là Gia Lai hoặc Kon Tum) đến Tây Ninh thuộc Vùng Chiến thuật III, nơi ông chỉ huy đơn vị bảo vệ dưới quyền Đoàn 96 (có thể là Trung đoàn Pháo binh 64 hoặc 96) và được cho là đã bắn rơi một máy bay trực thăng Hoa Kỳ vào ngày 6/1/1969. Lộ trình của Duyên là sự di chuyển từ tỉnh Nam Hà qua Trường Huấn luyện trinh sát Sơn Lâm, đến chiến trường Tây Ninh, nơi đơn vị của ông (hòm thư 86555 YK/C4) có thể đã hoạt động. Sổ tay của ông Duyên, với các bài viết tư tưởng và trích dẫn Hồ Chí Minh, cho thấy vai trò trong giáo dục chính trị và trinh sát. Các lộ trình này giúp xác định khu vực có khả năng giao tranh và vị trí tiềm năng cho công tác MIA/KIA.

dt4dvh4a-1750995746.jpg

Ảnh đính kèm do tác giả cung cấp: Một số trang di ảnh và di bút có trong các Hồ sơ Chứng tích Chiến tranh nêu trên.

 

Hồ sơ mã số F034605221709 là một nguồn tư liệu đặc biệt phong phú, kết hợp giữa thông tin chiến thuật và đời sống cá nhân từ một trong những chiến trường hậu Tết Mậu Thân khốc liệt nhất tại miền Nam. Bằng cách làm sáng tỏ các hành động chiến đấu, sự di chuyển của đơn vị, và đời sống tư tưởng trong hàng ngũ Quân đội Nhân dân Việt Nam, những tài liệu này phục vụ hai mục đích song song: hỗ trợ các nỗ lực nhân đạo trong việc tìm kiếm và hồi hương hài cốt, đồng thời làm sâu sắc thêm hiểu biết lịch sử về cách mà cuộc sống cá nhân gắn liền với vòng xoáy lớn hơn của chiến tranh. Giá trị của chúng không chỉ nằm ở những dữ liệu quân sự, mà còn ở những câu chuyện con người được lưu giữ và những câu chuyện giờ đây đang trên hành trình trở về với quê hương.

*

2- Tài liệu mã số hiệu F034605222693 do quân đội Mỹ thu giữ vào ngày 19/4/1969, tại xã Tân Hiệp, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh. Tài liệu thu giữ gồm 6 mục chính: 2 bằng khen, 2 bức thư cá nhân (có phong bì), và 2 sổ viết tay. Những tài liệu này thể hiện sự kết hợp giữa ghi chép hành chính, chính trị và cá nhân liên quan đến các thành viên của Đại đội 3, Tiểu đoàn 26, Đoàn 21 QĐNDVN. Nổi bật nhất là hai cá nhân: Hà Duy Lợi và Dương (hoặc Lương) Mạnh Thùy, với các ghi chép về quá trình phục vụ và thư từ cho thấy những thông tin quý giá về di chuyển nhân sự, hình thành tư tưởng, và cơ cấu đơn vị. Việc có mã số hòm thư dã chiến HT86564.YK.B23, cùng các bằng khen chính trị cho thấy giá trị kép của các tài liệu này, vừa phục vụ phân tích tình báo, vừa hỗ trợ công tác nhân đạo.

Ông Dương (có thể là Lương) Mạnh Thùy nhập ngũ ngày 31/5/1965 và “Đi B” ngày 26/12 cùng năm. Ông được kết nạp Đảng ngày 15/3/1967 và trở thành đảng viên chính thức ngày 16/12/1967. Địa chỉ quân bưu là 86564.YK.B23. Ông Thùy đã tham gia nhiều trận đánh tại: thung lũng A Sầu (Thừa Thiên Huế, tháng 3/1966), Yamo (Gia Lai, tháng 7/1966), Sa Thầy (Kon Tum, tháng 10/1966), Mô Cô – Sùng Thiện (Gia Lai/ Kon Tum, tháng 5– 6/1967), Cà Nong (Kon Tum, tháng 5/1968), Đắk Lắk (tháng 6/1968), Sóc Con Trăng (Tây Ninh, tháng 9/1968) và cuối cùng là Lộc Ninh (23/2/1969).

Ông Hà Duy Lợi, cũng thuộc Đại đội 3, Tiểu đoàn 26, được trao tặng danh hiệu “Chiến sĩ Quyết thắng, hạng Ba” theo Quyết định số 3QD ban hành tháng 3/1969. Ông có thư từ qua lại với cô giáo Trần Thị Nhiệu, tại làng Mai Hóa, huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình. Các bức thư này gửi từ hai hòm thư dã chiến: HT86564.YK.B23 và HT44263.BY. Ông Lợi cũng có một cuốn sổ tay ghi các bài ca cách mạng, thơ, chính trị và nhắc đến tên đồng đội là Trương Văn Tuần, cho thấy ông có vai trò tích cực trong công tác tư tưởng và xây dựng tinh thần đơn vị.

Đáng chú ý, hoạt động cuối cùng được ghi lại của Dương Mạnh Thùy là tại Lộc Ninh, một khu vực từng hứng chịu nhiều đợt oanh tạc và chiến dịch tấn công dữ dội của quân Mỹ. Việc không có thêm ghi chép sau thời điểm này cho thấy khả năng ông Thùy đã tử trận hoặc bị bắt vào đầu năm 1969, khiến cuốn sổ tay của ông trở thành một tài liệu “lần cuối còn sống” đặc biệt có giá trị. Trong bối cảnh đó, sự hiện diện của các thành phần Đoàn 21 cùng các tài liệu đi kèm tại khu vực này có thể phản ánh một cuộc hành quân bị gián đoạn, hoặc một cuộc rút lui khẩn cấp giữa giao tranh, làm gia tăng khả năng rằng những quân nhân được nêu tên trong hồ sơ đã hy sinh tại chỗ hoặc bị bỏ lại phía sau.

Các bản đồ tương tác trong báo cáo này được Phát triển dựa trên các ghi chép trong sổ tay của Dương Mạnh Thùy (và có thể cả Hà Duy Lợi), thể hiện quá trình di chuyển từ năm 1965 đến 1969. Các bản đồ này lần theo hành trình từ thung lũng A Sầu (Thừa Thiên Huế) qua các mặt trận ác liệt tại Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk và kết thúc tại Tây Ninh và Lộc Ninh. Bản đồ có lớp phủ dữ liệu về các vùng bị không kích của Mỹ, giúp phân tích so sánh không gian giữa đường hành quân của đơn vị và các khu vực nguy cơ cao - phục vụ công tác tìm kiếm MIA/KIA (mất tích, tử trận).

Hà Nội, 26/6/2025

TTNL