Ông Lê Đức Thịnh - Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn - Bộ Nông nghiệp và Môi trường.
PV: Thưa ông, việc Việt Nam đặt mục tiêu chuyển đổi 1 triệu hec-ta sang sản xuất gạo ít cacbon, ông có thể chia sẻ về những chính sách và chiến lược cụ thể mà chính phủ đang triển khai để đạt được mục tiêu này không?
Ông Lê Đức Thịnh: Xu thế chung của sản xuất là phát triển kinh tế xanh, kinh tế số và các hoạt động bảo vệ môi trường. Bộ Nông nghiệp đã có hẳn một Quyết định 150/QĐ-TTg năm 2022 về chuyển đổi tư duy sản xuất, làm thế nào để phát triển bền vững ngành nông nghiệp, không chạy theo số lượng. Và dự án 1 triệu hecta lúa giảm phát thải và chất lượng cao giảm phát thải gắn với tăng trưởng xanh ở Đồng bằng Sông Cửu Long là một minh chứng rất rõ ràng cho việc chúng ta phát triển ngành nông nghiệp bền vững, xoay trục, không chạy theo sản lượng cũng như thích ứng với biến đổi khí hậu, một trong những thách thức rất lớn hiện nay. Nó cũng là một cam kết của chính phủ với lại thế giới. Đặc biệt, dự án này quan tâm là một cuộc cách mạng về nông nghiệp trong sản xuất lúa ở Đồng bằng Sông Cửu Long nơi mà chúng ta có một vựa lúa an ninh lương thực rất lớn cho cả trong nước và xuất khẩu.
Cuộc cách mạng này hướng đến đầu tiên là chúng ta thay đổi phương thức sản xuất, tổ chức lại sản xuất trong ngành nông nghiệp trong đó có ngành lúa gạo bằng việc xây dựng được các chuỗi giá trị nông sản, không chỉ về chất lượng mà còn phát triển bền vững. Tránh tình trạng trong xu thế mà nhiều rủi ro, đứt gãy, sẽ xảy ra rất nhiều khó khăn cho bà con nông dân lúc tăng lúc giảm về giá cả, về sản lượng. Và cuộc kết mạng này cũng hướng đến chúng ta làm thế nào đấy. Quan trọng nhất là mang lại lợi ích cho bà con nông dân, mang lại thu nhập cho bà con nông dân không chỉ là câu chuyện giảm phát thái mà là giảm chi phí sản xuất, thế rồi tạo cải thiện môi trường cho nông dân. Môi trường nông nghiệp ở đây cụ thể là chúng ta chống các thoái hóa về đất, lạm dụng với sử dụng các phân hữu cơ hay là giống để tiết kiệm các chi phí và tiết kiệm chi phí đấy chính là tăng thu nhập cơ bản cho bà con nông dân. Và chúng ta cũng tiết kiệm các nguồn lực, lợi, ví dụ như là nước, nhất là nước ngọt trong điều kiện biến đổi khí hậu bây giờ. Thế rồi quản trị bảo vệ và đặc biệt là chúng ta tích hợp các giá trị để nâng cao giá trị cho sản xuất lúa, thông qua việc không chỉ là tiết kiệm chi phí, tiết giảm chi phí mà còn tích hợp các giá trị như là giá trị về quản trị rơm rạ. Từ rơm rạ chúng ta ra phân hữu cơ, chúng ta ra phân hữu cơ vi sinh để phục vụ sản xuất. Thế rồi chúng ta ra các sản phẩm khác, đương nhiên là quá trình đấy nó có thời gian, nhưng mà dần dần chúng ta sẽ chuyển đổi nền nông nghiệp theo hướng tích hợp đa giá trị, tiết giảm chi phí, phát triển bền vững và bảo vệ nguồn lợi.
PV: Dạ vâng, được chuyển đổi từ phương thức canh tác truyền thống sang canh tác bền vững thì chắc chắn sẽ gặp rất nhiều thách thức, đặc biệt là về kinh tế và thói quen của người nông dân, và giải pháp nào để hỗ trợ nông dân trong phát triển bền vững tại Việt Nam?
Ông Lê Đức Thịnh: Có thể nói rằng bất cứ cuộc cách mạng nào thì đều có những cái khó khăn, và khó khăn đầu tiên chính là nhận thức và đặc biệt là nhận thức của người sản xuất. Bà con nông dân Việt Nam chúng ta có một điểm mạnh là rất cần cù, thông minh và luôn luôn có thể thích ứng được với các điều kiện. Thế nhưng mà làm cái gì một cuộc cách mạng thì nó cũng có những nguyên lý, nguyên tắc của nó. Ví dụ từ việc tăng sản lượng bà con cũng hỏi là vậy thì áp dụng quy trình mới có thể làm giảm năng suất không? Hay có tăng được thu nhập không? Hay là chúng tôi thu hoạch rơm rồi thì bán ở đâu? Hay là chế biến như thế nào? Ai giúp đỡ chúng tôi? Tức là rất nhiều băn khoăn vào chúng tôi, thì bên nhà nước thì hiểu cái tâm trạng đấy, hiểu cái suy nghĩ đấy của bà con nông dân. Rồi cái việc mà canh tác, nói chung thì bao giờ xu thế là nó đơn giản. Nếu mà lúa thu hoạch xong chỉ đốt rơm một cái là coi như là xong, công việc nó nhàn nhã và chính cái nhàn đấy nó cũng làm tăng phúc lợi cho bà con nông dân. Nhưng cái việc tăng phúc lợi đấy nó sẽ đi kèm với lại những cái chi phí khác, ví dụ về môi trường, ví dụ như thế khác. Và nó là một cái bài toán đánh đổi. Cho nên cái việc đầu tiên, khó khăn nhất vẫn là nhậc thức cho bà con nông dân.
Việc thứ 2 mà khó khăn, đấy là chúng ta triển khai trên một dự án có quy mô lớn hàng triệu hec-ta và những cái vấn đề mà triển khai theo mô hình một vài chục hec-ta thì nó đơn giản. Nhưng mà với một cái diện tích lớn hàng triệu hec-ta cùng một lúc trong một cái giai đoạn 5-7 năm từ nay đến 2030 thì đấy cũng là một cái thách thức. Nhưng nếu chúng ta không làm, thì cũng không bao giờ làm được. Và chúng ta cũng không sốt ruột về cái chuyện là bây giờ phải làm đồng loạt, chúng ta cứ bắt đầu dần dần thì cái hoạt động nó sẽ tiến triển. Và chúng tôi tin tưởng rằng khi mà nhận thức của bà con nông dân thay đổi thì cái việc tham gia của bà con nông dân vào rất là tốt. Cái hoạt động thứ 3, khó khăn thứ 3 là nguồn lực. Bây giờ chúng ta thay đổi cái phương thức tiếp cận về nông nghiệp. Chúng ta cần phải có máy móc để mà san sẻ đồng ruộng, cần phải cải tạo đồng ruộng. Làm thế nào đấy, cái việc cưới tiêu nó phải chủ động hơn. Rồi các trung tâm Logistics hỗ trợ cho cái sản xuất lúa, tạo dịch vụ cho bà con nông dân hay nhất là các cái dịch vụ về xạ, cấy, rồi quản trị sâu bệnh, rồi quản trị rơm rạ sau thu hoạch. Thì đều là những cái cần phải đầu tư. Thì đấy cũng là những cái khó khăn. Còn lại một số cái khó khăn nữa, ví dụ như là công tác cái liên kết sản xuất, chẳng hạn các doanh nghiệp cũng phải phụ thuộc vào bây giờ chúng ta làm thế nào để triển khai cái liên kết một cách tốt nhất, tránh tình trạng rơi vào cái vết mòn ngày xưa, tức là tranh mua, tranh bán mà không thực sự có cái liên kết. Xây dựng một cái dự án chung của các tác nhân trong một chuỗi giá trị để cùng nhau phối hợp sản xuất, tránh tạo ra những vùng nguyên liệu cho các doanh nghiệp tiêu thụ. Thì rất nhiều những cái khó khăn chúng tôi cũng biết và lường trước.
Thói quen đốt rơm rạ trên cánh đồng gây ô nhiệm môi trường và lãng phí giá trị từ chuỗi giá trị lúa gạo là hiện tượng phổ biến ở Việt Nam.
Thế còn bây giờ về giải pháp thì qua cái trình bày vừa rồi thì tôi cũng đã nói một số các cái giải pháp rồi, nhưng mà chúng tôi thấy là cái việc đầu tiên quan trọng nhất vẫn là nâng cao nhận thức, và truyền thông và hướng dẫn cũng như là giúp đỡ bà con.
Vì như thế cho nên Bộ Nông nghiệp ngay từ đầu đã xác định là phải làm các cái mô hình cụ thể, mỗi tỉnh phải có những cái mô hình về mặt kỹ thuật, mô hình về hợp tác xã, mô hình liên kết để mà giúp cho người dân từ cái đó thay đổi nhận thức cũng như là tin tưởng. Và rất là tuyệt vời trong 2 vụ vừa qua, có thể nói như thế. Thì các tỉnh triển khai 7 mô hình ở các tỉnh của Đồng bằng Sông Cửu Long thì cái nhận thức của bà con đã thay đổi rất là nhiều.
Chúng tôi biết là có những cái địa phương lúc đầu bà con sinh ra không làm mô hình, nhưng bây giờ có những cái mô hình đã mở rộng. Và cái tương lai tháng trước chúng tôi có họp thì dự kiến là năm 2025 này sẽ mở rộng khoảng 20.000 hec-ta trong các hoạt động về dự án. Thì các địa phương cũng đăng ký lên đến 28.000, chứng tỏ nhận thức của bà con đã bắt đầu thay đổi thông qua cách làm mô hình.
Việc thứ 2 mà cũng rất là quan trọng, thì Bộ cũng đang chuẩn bị các cái dự án để hỗ trợ về hạ tầng, nhất là hạ tầng tưới và hạ tầng sản xuất để đảm bảo chủ động tươi tiêu, rồi là xây dựng lực lượng khuyến nông cộng đồng để sẵn sàng đi cùng với bà con. Và đương nhiên là cái mà do chính cục của chúng tôi phụ trách là cái việc nâng cao năng lực cho các tác nhân, không phải chỉ có nguyên bà con nông dân đâu, mà các hợp tác xã, các doanh nghiệp liên kết, các tổ chức tham gia vào.
Và một giải pháp nữa nó liên quan đến tín dụng, thì Ngân hàng Nhà nước theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ thì cũng đã chuẩn bị một chương trình về tín dụng để hỗ trợ tín dụng trong chương trình 1 triệu hec-ta lúa này.
Đồng thời thì còn những hoạt động khác như là đào tạo cho nông dân hay là đào tạo, tập huấn cho các đơn vị để nâng cao năng lực, thì các đơn vị đang phối hợp với nhau để thực hiện cái đề án này. Chúng ta vừa làm, vừa theo dõi đánh giá, vừa khắc phục những khó khăn, thì cái dự án này nó đang được triển khai rất là tốt.
PV: Thưa ông, GIC đã hỗ trợ trong việc áp dụng các biện pháp vào sản xuất gạo ít cacbon. Vậy ông đánh giá như thế nào về các đơn vị hỗ trợ như GIC trong việc thúc đẩy sản xuất gạo ít cacbon tại Việt Nam?
Ông Lê Đức Thịnh: Có thể nói là trong đề án 1 triệu hec-ta lúa, chất lượng cao giảm phát thải, thì cái chủ trương quan trọng nhất vẫn là câu chuyện xã hội hóa, thu hút cái đầu tư của tất cả các tác nhân. Hay mình nói là cái hợp tác công tư để tăng nguồn lực, tăng phúc lợi hay là những cái hoạt động hỗ trợ cho phát triển các nội dung của dự án, đề án. Thế thì riêng đối với công tác về các cái quy trình sản xuất, thì Bộ Nông nghiệp đã có hẳn 1 cái quy trình sản xuất theo Quyết định 145 của Cục Trùng trọt bàn hành tháng 3 năm 2024.
Và các cái nguyên lý này thì đã được tất cả các tác nhân đầu vào, phải tuân thủ hoặc là thực hiện theo các nguyên lý mà quy trình canh tác của Bộ Nông nghiệp đã bàn hành. Đối với sự tham gia của các tác nhân thì không phải chỉ có nguyên dự án GIC đâu, chúng tôi biết là có rất nhiều các dự án, các đề án, các doanh nghiệp trong nước và ngoài nước hiện nay đều tham gia vào việc phổ biến các quy trình sản xuất chất lượng cao, giảm phát thải.
Nhưng mà cái quy trình đó thì đều phải tuân thủ theo yêu cầu của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Riêng đối với dự án GIC, một dự án do Bộ Kinh tế của Đức tài trợ và Cục Kinh tế Hợp tác được phân công làm chủ dự án, thì sau thời gian chúng tôi theo dõi, các hoạt động của dự án GIC cũng có những tác động hoặc là các kết quả rất tốt so với việc mà phát triển cái ngành lúa rạo bền vững, giảm phát thải và tăng lợi ích thu nhập cho bà con nông dân.
Chúng tôi lấy một ví dụ như thế này, trong dự án của GIC hay nói một cách cụ thể, đấy là dự án phát triển các cái trung tâm đổi mới sáng tạo xanh về phát triển trong cái ngành hàng lúa gạo và ngành hàng xoài. Thì ở đây dự án đã xác định được đầu tiên là 6 phương thức đổi mới sáng tạo trong cái hoạt động sản xuất lúa gạo. Trước hết là sản xuất theo tiêu chuẩn SAP, một tiêu chuẩn sản xuất gạo rất quan trọng, trong đó nó đề cập đến cả, không chỉ kỹ thuật sản xuất giảm phát thải bền vững hay là kỹ thuật sản xuất để đạt chất lượng cao, mà cả các vấn đề về xã hội như là giảm thiểu sử dụng lao động trẻ em hay những cái phúc lợi khác cho nông dân.
Cái đổi mới sáng tạo thứ 2 chính là cái “ướt khô xem kẽ”. Thì “ướt khô xem kẽ” trong dự án cũng đã xây dựng 40 cái mô hình rất là tốt để mà bà con chứng nhận, xác nhận rằng là khi chúng ta tưới khô xem kẽ trong cái quy trình sản xuất áp dụng 1,5 giảm kèm vào nó thì cái lượng mà tiêu thụ nước nó giảm rất là đáng kẻ, giảm gần 40%. Trong khi đó thì lượng phát thải giảm trên gần 30% so với lại cái đối chứng. Thế rồi năng suất thì vẫn không giảm và cái thu nhập của bà con nông dân thì rất là tăng.
Sáng kiến thứ 3 đó là câu chuyện khuyến khích cho việc phát triển mô hình lúa tôm ở các vùng ven biển, duyên hải của đồng bằng sông Cửu Long. Đây là sáng kiến của bà con nông dân từ xưa, nhưng thông qua dự án Gic thì câu chuyện kết nối giữa doanh nghiệp, giữa bà con nông dân và đặc biệt là tổ chức của nông dân là các hợp tác xã đã được đẩy mạnh lên.
Sáng kiến thứ 4 là liên quan đến tổ chức sản xuất. Tổ chức sản xuất ở trong các mô hình của hợp tác xã là rất quan tâm, ở dự án Gic là quan tâm đến việc củng cố năng lực của các hợp tác xã. Cụ thể, trong dự án Gic đã có 294 hợp tác xã được tiếp cận các quản trị mới. Trong đó có 91 hợp tác xã hưởng lợi từ sản xuất lúa, hợp tác xã sản xuất lúa hưởng lợi từ chương trình Gic này để áp dụng các đổi mới sáng tạo, rồi thay đổi quản trị kinh doanh, rồi tập trung liên kết sản xuất.
Một sáng kiến thứ 5 tôi cho là vô cùng, vô cùng quan trọng. Đấy là câu chuyện về quản trị rơm rạ. Ở trong dự án này, chúng ta đã tập huấn cho khoảng 5.000 hộ nông dân về việc chế biến rơm rạ và trao đổi sản phẩm sau chế biến rơm rạ từ phân bón chế biến ra để cung cấp trở lại cho sản xuất lúa. Và quản trị rơm rạ đây là một trong những nội dung mà sau này đề án 1 triệu hecta lúa chúng ta đang là một trong những mục tiêu để giảm được phát thải.
Thứ 6 mà cũng là một cái quan trọng, đó là trong dự án Gic này có cái gọi là đào tạo về FBS tên là Farmer Business School, là đào tạo nông dân kinh doanh. Đây là một phương thức đào tạo rất mới cho trực tiếp bà con nông dân. Có thể nói rằng, chúng ta nói là chuyển đổi tư duy sản xuất thì ở trong cái đào tạo FBS đào tạo cho nông dân này là đào tạo cái phương thức quản lý kinh doanh trong nông hộ của nông dân. Tức là chúng ta coi nông nghiệp là kinh doanh và nông dân là doanh nhân.
Với cái tâm thế như vậy thì nội dung đào tạo, chương trình FBS cho nông dân, lúc đầu chúng ta chỉ đặt mục tiêu khoảng 10.000 hộ được đào tạo nhưng trên thực tế là sau 4 năm, số hộ nông dân được đào tạo trong 6 tỉnh này tăng lên hơn 20.000 hộ và có thể phát triển cả ra ngoài đồng bằng sông Cửu Long. Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn đã chính thức đưa cái đào tạo FBS này, nông dân kinh doanh này vào thành một chương trình đào tạo tập huấn cho nông dân, trong khuôn khổ nâng cao năng lực cho nông dân trong cả nước và đặc biệt là chương trình đào tạo nghề, tập huấn nghề cho nông dân. Và cái đào tạo FBS này chúng tôi cho rằng là khi mà nó phù hợp với lại bà con nông dân thì không chỉ bà con nông dân hưởng ứng đâu. Những bà con nông dân say mê học tập, biết tính toán, biết cách điều phối nguồn vốn hạn chế của mình, tiếp cận nguồn vốn như thế nào cho hợp lý, rồi sản xuất như thế nào, nhất là sản xuất theo hướng xanh, sạch như thế nào cho tiết kiệm. Và sau đó thì các tỉnh như tôi nói đã tự bỏ kinh phí đối ứng vào trong dự án này để đào tạo thêm gần một nửa học viên của các hộ nông dân trong kinh doanh nông nghiệp.
Tôi nói là với sáu cái đổi mới sáng tạo trong dự án GIC vô cùng tương hợp với mục tiêu của đề án 1 triệu hecta lúa mà chúng ta chính phủ đang triển khai, bộ nông nghiệp đang triển khai ở đồng bằng sông Cửu Long. Ở trong mục tiêu của 1 triệu hecta lúa chúng ta cũng nghĩ làm thế nào đấy để quản trị sản xuất theo hướng giảm, tiết giảm chi phí, rồi hạn chế sử dụng làm ảnh hưởng đến môi trường, làm ảnh hưởng đến nguồn lực như là đất đai và nước.
Chính vì thế cho nên trong quy trình sản xuất của 1 triệu hecta lúa cũng có những quy định về tưới khô xen kẽ, rồi 1 phải 5 giảm để giảm chi phí, giảm nguồn lợi. Nhất là nước và chi phí về phần vô cơ. Sự giảm tôi nhắc lại là sự giảm, tiết giảm chi phí chính là lợi nhuận của bà con nông dân. Cũng trong dự án đề án 1 triệu hecta lúa, theo quyết định 1490 của Thủ tướng Chính phủ thì quản trị rơm rạ cũng phải được thực hiện. Trong dự án những mô hình chúng tôi có thể đưa ra như ở các hợp tác xã Agricultural Green của Cần Thơ, hay là hợp tác xã Thanh Bình của Đồng Tháp, rồi gần 40 hợp tác xã mà được chuyển đổi các mô hình hoặc thậm chí hỗ trợ cả máy móc thì là những cái rất tốt để chúng ta có thể trong đề án mới 1 triệu hecta lúa tiếp cận, mở rộng, nhân rộng trong tương lai. Và còn 1 cái nữa mà chúng tôi cũng thấy là trong dự án đề án 1 triệu hecta lúa, chất lượng cao giảm phát thải cũng đã bắt đầu.
Đấy là câu chuyện làm thế nào để huy động được nông dân trẻ, đặc biệt là cân bằng giới thì những cái đóng góp sau này của cá nhân khác hoặc là các tổ chức khác sẽ tiếp tục để nhân rộng các sáng kiến của dự án Gic trong bối cảnh đề án 1 triệu hecta lúa mà Chính phủ và Bộ Nông nghiệp, bây giờ là Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang chuẩn bị triển khai.
PV: Ông có thể chia sẻ về sự hợp tác công tư đang được xây dựng và vai trò của các đơn vị liên quan đặc biệt là hợp tác xã trong việc thúc đẩy sản xuất lúa gạo tại Việt Nam?
Ông Lê Đức Thịnh: Có thể nói rằng, để dự án đề án 1 triệu hecta lúa chất lượng cao giảm phát thải thành công thì hợp tác công tư là một trong những chìa khóa để có thể tạo nên thành công cho đề án này. Không thể một tác nhân nào hoặc Chính phủ hoặc tư nhân hoặc bà con nông dân đơn độc mà có thể hoàn thành được nhiệm vụ cao cả của đề án này.
Bởi vì thế cho nên chúng tôi xác định, Nhà nước rồi các chính quyền các địa phương phải hợp tác đồng hành cùng với các tác nhân, tư nhân. Ở đây cụ thể là doanh nghiệp, hợp tác xã rồi là bà con nông dân sản xuất lúa. Thế rồi thậm chí chúng ta còn phải hợp tác ở mức khu vực hay là quốc tế trong việc thuận theo các đồng thuận, để thích ứng hội nhập về quy trình. Hay là đánh giá phát thải để lúa gạo của Việt Nam tương thích với quy trình tiêu chuẩn của thế giới.
Và chúng tôi cho rằng, vai trò của nhà nước, cụ thể là nhà nước và các địa phương là vai trò dẫn dắt và hỗ trợ. Ở đây dẫn dắt là chúng ta xây dựng các khung pháp lý về quy trình sản xuất, về đánh giá, kiểm soát đánh giá phát thải hay là về các hoạt động sản xuất kinh doanh theo chuỗi giá trị và có thể một phần là hỗ trợ trong việc cải thiện hạ tầng sản xuất hay là nâng cao năng lực cho các bên khác nhau.
Thế còn vai trò của hợp tác xã, của doanh nghiệp thì cực kỳ lớn. Chúng tôi muốn nói về doanh nghiệp, cả doanh nghiệp liên kết để tiêu thụ lúa gạo cho nông dân và doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ đầu vào cho sản xuất. Thì cái này là một trong những cái rất là cần thiết. Chính vì thế mà Bộ Nông nghiệp đã công bố quyết định 2718 về thu hút, hướng dẫn thu hút đầu tư của các bên khác nhau.
Còn trong đó có quy định các quyền lợi, trách nhiệm của các bên khi tham gia vào chương trình hoặc là đề án 1 triệu hecta lúa này. Riêng đối với các doanh nghiệp tiêu thụ lúa, ngoài việc đồng hành với bà con nông dân, với các hợp tác xã để xây dựng chuỗi giá trị, quản trị chuỗi giá trị, thì doanh nghiệp đấy có những vai trò hết sức quan trọng, kể cả hỗ trợ chính sách của doanh nghiệp cho bà con nông dân lẫn hướng dẫn các hợp tác xã liên kết sản xuất cùng quy trình sản xuất để đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp. Đặc biệt phải tham gia vào xây dựng thương hiệu lúa gạo chất lượng cao, giảm phát thải của đồng bằng sông Cửu Long.
Những cánh đồng lúa chất lượng cao và phát thải thấp góp phần bảo vệ môi trường và phát triển bền vững tại khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long.
Chúng tôi coi rằng các doanh nghiệp đầu vào ngoài chuyện làm các mô hình, rồi là đồng hành cùng với bà con nông dân, nhất là trong giải pháp kỹ thuật, các giải pháp khác nhau để mà đạt được mục tiêu giảm phát thải hay là nâng cao chất lượng. Thì các doanh nghiệp đầu vào cũng có thể hỗ trợ các cơ chế chính sách của chính mình cho bà con nông dân và tất cả những cái đấy được bộ nông nghiệp, chính phủ khuyến khích đầu tư. Về phía hợp tác xã thì đây là mấu chốt của dự án này.
Thành công hay không cũng là do việc chúng ta có tổ chức lại được nông dân để tham gia vào không. Hợp tác xã, bản chất hợp tác xã có 7 nhiệm vụ mới trong nhiệm vụ tham gia ở đây. Tôi lấy ví dụ như: hợp tác xã phải vận động để cho nông dân tham gia vào làm thành viên của mình, tham gia vào chuỗi giá trị lúa gạo và chất lượng cao giảm phát thải.
Hay hợp tác xã phải cùng với các doanh nghiệp các bên để quản trị quy trình sản xuất lúa gạo và chất lượng cao, phát thải thấp ở đồng bằng sông Cửu Long như thế nào. Rồi hợp tác xã phải tổ chức để tham gia vào việc đánh giá, xác nhận, chứng nhận cùng với các đơn vị chuyên môn để xác nhận kết quả, thực hiện quy trình sản xuất, thực hiện giảm phát thải. Rồi hợp tác xã phải tổ chức nông dân để liên kết với doanh nghiệp theo như chúng tôi cứ nói là theo một chuỗi liên kết có đầu vào, có quy trình sản xuất cụ thể và có hợp đồng tiêu thụ sản phẩm cho bà con nông dân với thương hiệu lúa gạo mới mà chúng ta đang hướng đến.
Rồi hợp tác xã còn phải làm những việc nữa như là cung cấp các dịch vụ, tổ chức các dịch vụ mà đặc biệt là ngoài những dịch vụ mà các hợp tác xã thông thường đang cung cấp cho bà con nông dân thì các dịch vụ như là cung ứng giống, đạt chất lượng, tổ chức lại cơ giới hóa, làm thế nào đấy, đảm bảo các khâu, ba khâu quan trọng là: khâu xạ cấy; khâu chăm sóc và bảo vệ thực vật; rồi khâu thu hoạch rơm rạ, quản trị rơm rạ, chế biến rơm rạ ở sau này là những cái mà hợp tác xã rất là quan trọng.
Cuối cùng là tập huấn nâng cao năng lực cho bà con nông dân khi tham gia vào dự án này thì làm thế nào đấy, các hợp tác xã phải có những dự án, đề án riêng của mình để tham gia một cách hiệu quả. Và trên cơ sở đấy thì các hợp tác xã này cũng sẽ được các đơn vị chức năng, chính quyền ở địa phương sẽ hỗ trợ, không phải hợp tác xã đơn độc mà làm tất cả những cái đó, mà sẽ có những bộ phận như khuyến nông cộng đồng đồng hành với hợp tác xã. Hay là các đơn vị chuyên môn ở các địa phương trong đó có các chi cục phát triển nông thôn trực thuộc hệ thống của Cục Kinh tế Hợp tác và Phát triển nông thôn ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long sẽ đồng hành cùng với bà con.
Nói tóm lại, chúng ta thấy hợp tác công tư trong đề án 1 triệu hecta lúa này là cốt lõi, chìa khóa và việc phân công, phân định, trách nhiệm của các bên để phối hợp, điều phối các hoạt động này, nó sẽ giúp cho đề án đạt được mục tiêu như đã định.
PV: Trân trọng cảm ơn ông!