Thực tiễn cho thấy, bên cạnh những kết quả tích cực, thị trường còn bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế và bất cập, còn tiềm ẩn những rủi ro. Quản lý tài chính và đầu tư phát triển có nhiều vướng mắc; chưa phát huy được vai trò Nhà nước trong định hướng, điều tiết vĩ mô; hệ thống pháp luật liên quan chưa thống nhất, chồng chéo; Cơ sở dữ liệu thông tin thị trường thiếu đồng bộ; rủi ro BĐS có thể lan truyền rộng nhưng phần lớn nguồn vốn lại đổ vào thị trường này.
Để giải quyết khó khăn, tránh thị trường trở thành nhân tố gây lạm phát và để kiểm soát hiệu quả dòng vốn đầu tư, không gây sốc trong đời sống xã hội, nghiên cứu đánh giá đúng thực trạng kinh tế để có cơ sở đề xuất giải pháp nhằm quản lý và phát triển lành mạnh là hết sức cần thiết.
Bài viết tổng hợp thực trạng, cảnh báo rủi ro và bất ổn để gợi ra những khuyến nghị chính sách nhằm góp phần vào ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng một cách bền vững.
Tổng quan kinh tế năm 2022
Làm rõ bối cảnh quốc tế và đánh giá diễn biến kinh tế thông qua 4 khu vực bao gồm: kinh tế thực, kinh tế đối ngoại, tài chính tiền tệ và tài chính ngân sách là những nội dung cơ bản trong phân tích tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của nền kinh tế trong tiến trình hội nhập toàn cầu; đây được coi là những vấn đề chính trong các công trình nghiên cứu.
Năm 2022 được bắt đầu với kỳ vọng về sự phục hồi kinh tế, các nền kinh tế lớn toàn cầu bắt đầu mở cửa và quá trình sản xuất trở lại bình thường sau đại dịch. Tuy nhiên, nhiều bất lợi đã phát sinh, khiến tăng trưởng đạt được thấp hơn rất nhiều so với kỳ vọng.
Xung đột Nga-Ukraina làm đứt gãy chuỗi cung ứng, gây lạm phát, ảnh hưởng đến an ninh lương thực và năng lượng toàn cầu. Lạm phát leo thang, buộc Ngân hàng Trung ương nhiều nước phải liên tục thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt bằng gia tăng lãi suất. Lãi suất tăng cao, đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất và đầu tư của doanh nghiệp, khiến triển vọng kinh tế ảm đạm, Ngoài ra, Trung Quốc, nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới, với chính sách Zero Covid đã chi phối lớn dòng chảy thương mại, làm gián đoạn nhiều hoạt động kinh tế và hạn chế đơn hàng đối với nhiều nước xuất khẩu. Nhiều tổ chức kinh tế quốc tế dự báo, tăng trưởng toàn cầu trong năm 2022 chỉ đạt từ 2,6% đến 3,2%, thấp hơn rất nhiều so với mức tăng 5,9% đến 6% của năm 2021. Trong đó, những nền kinh tế mới nổi và đang phát triển đã sụt giảm đáng kể với nhịp độ tăng trưởng chỉ đạt 3,4%, thấp hơn nhiều mức tăng 6,7% của năm 2021.
Thị trường tài chính bất lợi trong bối cảnh toàn cầu suy giảm, lạm phát gia tăng và chính sách tiền tệ bị thắt chặt. Lãi suất tăng cao, khiến đồng nội tệ ở nhiều quốc gia đồng loạt giảm giá so với USD. Nguồn cung tài chính giảm, chi phí vay mượn của nhiều nước tăng cao, trên thực rế không ít quốc gia đã mất khả năng tiếp cận với thị trường tài chính quốc tế.
Những diễn biến toàn cầu trong năm 2022 đã tác động mạnh mẽ đến kinh tế Việt Nam, Xung đột giữa Nga và Ukraina tác động đến nguồn cung hàng hóa cơ bản, gây sức ép lạm phát, chi phí đẩy tăng cao. Tuy nhiên, thực tế này cũng tạo cơ hội đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu sang thị trường Mỹ và châu Âu. Tác động từ chính sách Zero Covid-19 của Trung Quốc gây đứt gẫy chuỗi cung ứng, khiến tình trạng khan hiếm nguyên vật liệu phổ biến đối với nhiều nhà sản xuất; nhu cầu tiêu dùng sụt giảm cùng với biện pháp phong tỏa của quốc gia này, đã ảnh hưởng tiêu cực đến xuất nhập khẩu. Ngoài ra, thị trường du lịch Trung quốc đóng cửa, cũng ảnh hưởng nặng nề đến phát triển dich vụ ở Việt Nam.
Trước diễn biến phức tạp của tình hình Thế giới và trong nước, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị quyết về Chương trình Phục hồi phát triển kinh tế-xã hội và triển khai Nghị quyết của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ; song kết quả giải ngân còn rất hạn chế, chưa đạt được hiệu quả mong muốn, khiến cho kinh tế Việt Nam năm 2022 còn gặp nhiều bất lợi’
Về khu vực kinh tế thực
Theo Tổng cục Thống kê, tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2022 gia tăng đáng kể, đạt 8,02%, cao gấp trên 3 lấn mức tăng 2,56% của năm 2021. Các nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến tăng trưởng cao là năng suất lao động(NSLĐ), sự phát triển của kinh tế số (KTSD), đổi mới sáng tạo (ĐMST) và hiệu quả môi trường của nền kinh tế.
Tư liệu nghiên cứu cho thấy, NSLD của Việt Nam năm 2022 tăng 6,48%, là mức tăng cao nhất của các nước trong khu vực ASEAN, mức tăng trưởng này đã giúp Việt Nam thu hẹp dần khoảng cách với nhiều quốc gia. Tuy nhiên, đóng góp từ chất lượng lao động cho tăng trưởng GDP còn rất thấp, mới đạt 1,4% và chưa ổn định. Mặt khác, năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) năm 2022 lại sụt giảm tới 0,2%, trong khi hầu hết các nền kinh tế khu vực đã phục hồi. Trong những năm chịu tác động của đại dich Covid-19, mức đống góp của TFP Việt Nam vào tăng trưởng GDP ngày càng suy giảm là vấn đề đáng quan ngại.
Về kinh tế số (KTS) giá trị đạt được còn ở mức khiêm tốn, đóng góp của vốn Tài sản ICT giảm tới -1,36% trong năm 2022, là mức thấp nhất của các nền kinh tế khu vực, đã phản ánh tình trạng yếu kém trong phát triển KTS mà nguyên nhân chủ yếu là do khó tiếp cận nguồn tài chính, năng lực doanh nghiệp thấp và thiếu lao động có kỹ năng.
Chỉ số hiệu quả môi trường (EFPI) đạt rất thấp, Việt Nam đứng thứ 178 trong180 nước và vùng lãnh thổ được xếp hạng, đã phản ánh tình trạng đáng báo động về bảo vệ môi trường với những chỉ số thấp về phát thải khí C02, chỉ số liên quan đến dịch vụ hệ sinh thái, độ che phủ rừng và môi trường biển.
Có thể thấy, kinh tế Việt Nam phục hồi nhanh, nhưng chất lượng vẫn chưa cải thiện; nhất là chất lượng lao động thấp, tăng trưởng và đóng góp của năng suất các yếu tố tổng hợp suy giảm; Đổi mới Sáng tạo, KTS còn khiêm tốn và hiệu quả môi trường ở mức đáng báo động.
Theo cơ cấu ngành kinh tế, đóng góp chính vào tăng trưởng năm 2022 là khu vực dịch vụ, khu vực này bắt đầu tăng trưởng trở lại sau đại dịch, với mức tăng 9,99% và đóng góp 56,65% vào tăng trưởng GDP; tiếp theo là ngành Công nghiệp và Xây dựng (CN-XD) với mức tăng 7,78%, đóng góp 38,24% vào tăng trưởng GDP; ngành Nông-Lâm-Thủy sản (NLTS) duy trì đà tăng trưởng 3,36% và đóng góp 5,11% vào tăng GDP của nền kinh tế.
Theo nhân tố chi tiêu, đóng góp chủ yếu vào tăng trưởng của năm 2022 là tiêu dùng sau cùng, tiêu chí này phục hồi và đạt mức tăng 7,18%, đóng góp tới 49,32% vào tăng trưởng GDP. Cùng với yếu tố chi tiêu, tốc độ tăng tích lũy tài sản cũng có dấu hiệu gia tăng với tỷ trọng đóng góp 21,59% vào mức tăng trưởng chung. Trong nguồn vốn đầu tư, đầu tư xã hội đã lên 33,85% GDP, tăng 11,2% là mức tăng mạnh so với 3,2% của năm 2021. Qua đó, đầu tư công đã thể hiện vai trò quan trọng khi khu vực tư nhân bị thu hẹp do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19.
Có thể thấy, kinh tế Việt Nam năm 2022 đạt mức tăng trưởng cao do những đóng góp từ phía cầu với mức chi tiêu tăng mạnh cùng với vai trò của đầu tư công trong đầu tư xã hội. Về phía cung, sự phục hồi mạnh mẽ của lĩnh vực du lịch đồng thời với sự trở lại của công nghiệp chế biến chế tạo, đã tạo nhiều thuận lợi cho tăng trưởng.
Đối với hoạt động doanh nghiệp. Số doanh nghiệp thành lập mới đa phần là những doanh nghiệp siêu nhỏ dưới 10 lao động, tăng 27,1%, nhưng số ngừng hoạt động, đang làm thủ tục giải thể hoặc đã hoàn tất thủ tục giải thể lại tăng tới 16,7%; riêng số tạm ngừng kinh doanh có thời hạn lên đến 39% so với năm 2021. Bên cạnh đó, vốn đăng ký kinh doanh bình quân lại giảm từ 13,8 tỷ xuống còn 10,7 tỷ đồng (giảm trên 22%) cho thấy, khó khăn về tài chính của hầu hết các loại hình doanh nghiệp trong nước. Kết quả hoạt động doanh nghiệp còn cho thấy, khu vực này có nhiều khó khăn với đơn hàng giảm mạnh do nhu cầu suy giảm, chi phí đầu vào gia tăng, doanh nghiệp thiếu vốn và biến động bất động sản (BĐS) đã ảnh hưởng đến niềm tin của nhà đầu tư.
Điểm nghẽn liên hệ mật thiết với hệ thống tài chính tiền tệ là thị trường BĐS. BĐS là tài sản có giá trị lớn nhất của cá nhân và các tổ chức xã hội trong nền kinh tế. Giá trị BĐS chiếm trên 30% tổng tài sản Quốc gia và từ 30% đến 40% tổng các hoạt động của nền kinh tế có khả năng lan tỏa vào các lĩnh vực chính của nền kinh tế.
Thời gian qua thị trường BĐS còn bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro và phát triển thiếu lành mạnh. Phần lớn nguồn vốn đổ vào thị trường BĐS là từ tín dụng của hệ thống ngân hàng; thị trường BĐS trầm lắng sẽ tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Năm 2022, nguồn vốn tín dụng đổ vào BĐS tăng 24% so với năm 2021, tăng gấp 1,7 lần so với mức tăng bình quân của toàn hệ thống, chiếm 21% tổng dư nợ tín dụng, tương đương với 26,3% GDP cả nước. Trong cơ cấu tín dụng BĐS trên 60% phục vụ nhu cầu nhà ở và tự sử dụng là phân khúc hấp dẫn dòng vốn đầu cơ. Thị trường BĐS phụ thuộc vào tín dụng Ngân hàng và tỷ trọng lớn tín dụng BĐS hướng vào phân khúc mang tính đầu cơ, có thể tạo rủi ro ổn định và an toàn hệ thống NHTM. Do vậy, trong đánh giá thực trạng nền kinh tế, nhìn nhận đúng thực trạng BĐS sẽ là cơ sở để đưa ra giải pháp và khuyến nghi chính sách.
Trong khu vực kinh tế đối ngoại
Khu vực này được thể hiện qua tỷ giá, cán cân thương mại và cán cân thanh toán. Trong năm 2022, trước áp lực từ Quỹ Tiền tệ thế giới (FED) và nhiều Ngân hàng Trung ương thắt chặt chính sách tiền tệ, nâng cao lãi suất và đồng USD tăng giá (tỷ giá lên mức cao nhất trong 3 năm qua) tỷ giá hối đoái đã biến động mạnh.
Ở Việt Nam, tỷ giá trung tâm tăng 2%, tỷ giá USD tại các NHTM tăng 3,8% so với năm 2021. VNĐ thuộc nhóm đồng tiền có mức giá thấp, đồng nghĩa với tỷ giá thực định cao, dẫn đến hàng hóa giảm tính cạnh tranh và đồng tiền chịu áp lực dồn nén trước những cú sốc từ nên ngoài.
Về cán cân vãng lai, Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2022 đạt 732,5 tỷ USD, tăng 9,5% so với 2021, giá xuất và nhập khẩu lần lượt đã tăng 7,1% và 8,6%; cán cân thương mại hàng hóa có xuất siêu 11,2 tỷ USD, cao hơn nhiều so với mức 4 tỷ USD của năm 2021, nhưng điều dáng quan ngai lại là, khu vực FDI đóng góp tới 74,4% tổng kim ngạch xuất khẩu và 65,1% kim ngạch nhập khẩu, xuất siêu tới 41,9 tỷ USD; trong khi khu vực kinh tế trong mước lại nhập siêu hơn 30,7 tỷ USD. Các thị trường xuất- nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam là Mỹ, Cộng đồng châu Âu, Trung Quốc, ASEAN, Nhật Bản và Hàn Quốc.Trong đó, Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất, còn Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất.
Có thể thấy, vai trò chủ chốt trong chuỗi sản xuất toàn cầu ở Việt Nam là các doanh nghiệp FDI. Những doanh nghiệp này sản xuất các măt hàng chế biến chế tạo tạo ít giá trị gia tăng, khu vực doanh nghiệp trong nước còn rất yếu trong chuỗi giá trị toàn cầu. Mặc dù vồn FDI đăng ký trong năm 2022 giảm khoảng 11%, nhưng FDI thực hiện vẫn tăng 13,5%.
Do lãi suất trên thị trường quốc tế gia tăng, các doanh nghiệp và tổ chức tín dụng đã hạn chế vay nợ nước ngoài, khiến cán cân vốn tài chính trong 3 Qúy đầu năm 2022 chỉ đạt 7,34 tỷ USD chỉ bằng 1/3 so với 3 Quý đầu năm 2021. Từ những bất lợi nêu ra, cán cân thanh toán tổng thể 2022 đã chuyển sang thâm hụt với mức 21,54 tỷ USD trong 9 tháng đầu năm .
Đối với khu vực tài chính tiền tệ
Về lạm phát, Chỉ số CPI năm 2022 tăng 3,15% cao hơn mức tăng 1,84% của năm 2921, đã phản ánh rủi ro và áp lực lạm phát gia tăng. Lạm phát cơ bản trong năm tăng 2,59% cao gấp trên 3 lần mức tăng 0,81% của năm 2021, phản ánh hiệu lực kiểm soát suy giảm. Việc triển khai gói hỗ trợ phục hồi kinh tế và nhu cầu chi tiêu gia tăng làm tăng tổng cầu đã gây sức ép lạm phát.
Trong bối cảnh lạm phát toàn cầu, FED tăng mạnh lãi suất và giá đồng USD cao; ở trong nước do tỷ lệ tín dụng/huy động vốn và dư nợ tín dụng/GDP ở ngưỡng cảnh báo buộc NHNN đã phải thực thi chính sách tiền tệ thăt chặt, điều chỉnh tăng lãi suất tái cấp vốn và tái chiết khấu, tăng trần tiền gửi; điều chỉnh và sử dụng Quỹ dự trữ ngoại hối để kiềm chế tỷ giá. Các Ngân hàng thương mại đã cố gắng để cải thiện tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR); hệ số CAR được cải thiện theo hướng tích cực Cuối năm 2022 chỉ số CAR của các NHTM đã tăng hơn năm 2021 nhưng vẫn chưa đạt mục tiêu tối thiểu 11%-12% vào năm 2025
Về chất lượng tài sản, nợ xấu (NPL) trung bình có xu hường gia tăng, đã từ 1,28% cuối năm 2021 tăng lên 1,34% Q2/2022 và tới mức 1,47% vào Q3/2022. Đáng chú ý là nợ có khả năng mất vốn tăng tới 62,5% và chiếm đến 55,8% tổng số nợ xấu.. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLR) của ngành đã lên 168,7% vào cuối năm 2022. Trong đó, mức trung bình của NHTM nhà nước là 345% và NHTM cổ phần là 96% (ĐHKTQD 2023).
Thanh khoản của hệ thống đã đén mức căng thẳng. Tính thanh khoản được thể hiện bởi khoảng cách tăng trưởng giữa tiền gửi và tín dụng ngày càng nới rộng. Cho dù lãi suất huy động gia tăng, song chênh lệch giữa số dư huy động và dư nợ vẫn ở trạng thái âm với mức tăng tin dụng 11,2% và tăng trưởng tiền gửi chỉ dạt 4,8% vào ngày 21 tháng 12 năm 2022.
Đối với khu vực chứng khoán. Năm 2022 đã có nhiều biến động; trái ngược với đà phục hồi và tăng trưởng cao của nền kinh tế, chỉ số VN-index và thanh khoản sụt giảm với những biến động lớn trên thị trường. Thị trường chứng khoán chịu sự tác động bởi nhân tố rủi ro từ bên ngoài, do hoạt động điêù hành chính sách của NHNN và thiếu hụt thanh khoản trong nền kinh tế. Đặc biệt trái phiếu doanh nghiệp BĐS đã trở thành nhân tố gây thiếu hụt. Thị trường cổ phiếu chịu tác động cua cổ phiếu BĐS đã giảm sàn liên tiếp sau hơn 20 phiên giao dịch, trở thành nhân tố kích hoạt sự sụt giảm mạnh của thị trường cổ phiếu.
Về khu vực tài chính ngân sách
Nét nổi bật trong triển khai nhiệm vụ tài chính ngân sách năm 2022 là thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội của Quốc hội. Trong Chương trình này, chính sách tài khóa chủ yếu của nhóm nhiệm vụ trọng tâm bao gồm các chính sách thúc đẩy đầu tư công, đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, đảm bảo an sinh xã hội, hỗ trợ việc làm, miễn giảm thuế và lệ phí. Quy mô các giải pháp thuộc nhóm chính sách tài khóa lên tới 237,6 nghìn tỷ đồng. Tuy nhiên, việc phân bổ ngân sách cho các gói mục tiêu chưa kịp thời, các đối tượng thụ hưởng lại rất đa dạng, cần có thời gian rà soát. Ngoài ra, tâm lý e ngại, sợ sai nên còn lúng túng trong triển khai thực hiện.và còn thực hiện chậm trễ. Đến tháng 11năm 2022 mới đạt được 60% kế hoạch, thực chi 60,5% giá trị gói miễn miễn giảm thuế lệ phí; riêng thời hạn gia hạn nộp thuế và tiền thu ê đất mới thực hiện được 4,44%.
Mặc dù tăng trưởng đạt trên 8% nhưng tốc độ tăng thu ngân sách chỉ đạt 2,91% thấp hơn mức tăng 3,83% của năm 2021.Thu ngân sách năm 2022 đạt 17,4% thấp hơn bình quân trên 21 % trong 10 năm (2011-2021). 4 nguồn thuế thu Ngân sách chiếm tỷ trọng lớn nhất là thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) 18,69%, thuế giá trị gia tăng (GTGT),đối với hàng hóa sản xuất trong nước 16,05%, thu trên hàng hóa xuất/nhập khẩu 15,24% và thu tiền sử dụng đất 12,02%; song quy mô thu thuế TNDN năm 2022 đã giảm 5,4%, trong khi thu trên hàng hóa xuất-nhập khâủ tăng 13,93% và thu tiền sử dụng đất tăng 4,66%. Theo các nhà phân tích, đây là những hiệu không bình thường,cần được lưu ý về tính bền vững của nguồn thu ngân sách.
Về thâm hụt ngân sách và nợ công
Trong năm 2022, chi ngân sách bằng 114,05% dự toán, tăng 9,73%, tỷ trọng/GDP đạt 22,8% là mức thấp nhất kể từ năm 2011 nhưng trả nợ gốc chỉ đạt 99% dự toán. Chi thường xuyên tiêp tục là khoản chi lớn nhất, ước đạt dự toán và tăng 6,.05% so với năm 2021 Chi đầu tư phát truển tăng 28,57%, đã đưa tỷ trọng đầu tư từ 27,8% lên 32,58% GDP, đã thể hiện nỗ lực gia tăng đầu tư công để hỗ trợ tăng trưởng.
Quy mô thâm hụt ngân sách năm 2022 bằng 1,47 lần, tương ứng với 4,5% GDP và thâm hụt ngân sách tăng 16,94%, tương đương với năm 2021 bằng 6,61% GDP. Tỷ lệ nợ công/GDP duy trì xu hướng giảm dần, ước khoảng 43%-44% GDP tương đương với năm 2021. Những chỉ têu khác về nợ đều trong mức an toàn với nợ nước ngoài khoảng 40%-41% GDP, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ khoảng 18%-19% nguồn thu ngân sách. Điều đáng lưu ý là, các chỉ tiêu liên quan đến nghĩa vụ trả nợ và nợ đều có dấu hiệu gia tăng, Nợ nước ngoài so với kim ngạch xuất khẩu tăng từ 5,7% lên 6,8%; nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ so với nguồn thu ngân sách cũng từ 21,2% tăng lên 21,8%.
Có thể thấy, Việt Nam trải qua năm 2022 với tăng trưởng phục hồi ở mức độ cao, lạm phát và tỷ giá được kiểm soát, các cân đối vĩ mô được đảm bảo. Tuy nhiên, chất lượng tăng trưởng còn thiếu bền vững, cấu trúc kinh tế vẫn phụ thuộc vào nước ngoài với giá trị gia tăng thấp, rủi ro tài chính còn nhiều cùng với niềm tin thị trường có chiều suy giảm. Những tồn tại, hạn chế gơi ra cần sớm khắc phục để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và nâng cao khả năng tăng trưởng dài hạn.
Triển vọng kinh tế trong năm 2023
Nhiều chức quốc tế đã đưa ra những dự báo về mức tăng trưởng kinh tế toàn cầu và của nhiều nước trong các vùng lãnh thổ. Tăngg trưởng kinh tế thế giới năm 2023 dao động trong khoảng 1,4%-2,7% trước những rủi ro về chinh sách tiền tệ thắt chặt, lãi suất tăng cao, chuỗi cung ứng bị đứt gẫy, Theo đó, lạm phát toàn cầu được dự báo ở mức tăng 5,2% , cao hơn mức lạm phát bình quân của giai đoạn 2015-2019 là 2,3%.
Thưc hiện chính sách tiền tệ thắt chặt để kiềm chế lạm phát, có thể gây căng thẳng thị trường tài chính, kéo theo suy giảm tăng trưởng. Tăng trưởng thương mại thế giới năm 2023 được dự báo sẽ thấp hơn so với bình quân 4,6% của cả giai đoạn 2000-2021. Ngoài ra, triển vọng về dòng vốn FDI toàn cầu trong năm 2023 sẽ yếu đi. Giá xăng dầu chỉ tăng nhẹ nhưng giá lương thực gia tăng khó lường, những nhân tố này đều tác động mạnh đến xu thế tăng trưởng toàn câu và đối với từng nền kinh tế.
Đối với Việt Nam, tác động bất lợi của tình hình kinh tế thế giới và những điểm nghẽn kinh tế trong nước buộc phải điêu chỉnh lại những dự báo tăng trưởng đã được xây dựng, Theo các nhà phân tích,động lực tăng trưởng của Việtt Nam đến từ những yếu tố mang nhiều triển vọng như ngành công nghiêp chế biến chế tạo chiếm khoảng 25% GDP, đang có sức bật trở lại với sự hỗ trợ của khu vực kinh tế có vốn đàu tư nước ngoài (FDI); có ngành du lịch và dịch vụ nhiều khả năng trở lại hoat đông với lượng khách du kịch quốc tế cao đến từ chính sách nới lỏng và biện pháp phong tỏa của nhiều quốc gia, đặc biệt là Trung Quốc. Ở trong nước, đầu tư công được đẩy mạnh sẽ đóng góp hiệu quả vào đầu tư xã hội và hỗ trợ khu vực tư nhân phát triển mô hình tăng trưởng phụ thuộc vào vốn đầu tư và tín dụng, Ngoài ra, Chương trình phục hồi và phát triển KT-XH trong năm cuối cùng thực hiện với quyết tâm cao sẽ tạo thuận lợi thúc đẩy mạnh tăng trưởng.
Cùng với thuận lợi, nền kinh tế Việt Nam còn phải chịu nhiêu thách thức.Tác động suy giảm kinh tế toàn cầu với triển vọng ảm đạm của những nền kinh tế lớn là trở ngại lớn đối với nền kinh tế có độ mở cao; tiếp đến là nguy cơ lạm phát còn dai dẳng. Theo đó, yếu tố tiêu cực ảnh hưởng dến tăng trưởng năm 2023 bao gồm: Suy giảm nhu cầu hàng hóa và dịch vụ toàn cầu sẽ tác động lớn đến kim ngạch xuất khẩu; chính sách tiền tệ thắt chặt và môi trường lãi suất cao khiến điều kiện tài chính không thuận; lạm phát thế giới gia tăng sẽ tác động nặng nề đến lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Ở trong nước, lãi suất đi cùng tín dụng và tỷ giá gia tăng vẫn là diểm nghẽn, là thách thức lớn đối với nền kinh tế.
Trong bối cảnh phải hỗ trợ nền kinh tế hồi phục hoàn toàn sau đại dịch, lãi suất chịu nhiều áp lực lạm phát có xu hướng gia tăng từ lạm phát cơ bản đến chi phí đẩy do giá nguyên liệu và hàng hóa thế giới tăng cao; việc FED và NHTW các nước tiếp tục thắt chặt chính sách tiền tệ và tăng lãi suất gây sức ép mạnh đến lãi suất trong nước; giá trị đồng USD tiếp tục gia tăng sẽ đẩy mức lái suất trong nước phải gánh thêm trách nhiệm duy trì tỷ giá ổn định trong điều kiện tỷ lệ cung tiền M2/GDP và tín dụng/GDP đã ở mức cảnh báo trong nhóm nước thu nhập trung bình thấp. Do hệ thống tài chính chưa bền vững cùng với giám sát thị trường còn nhiều tồn tại,dư địa chính sách tiền tệ bị ảnh hưởng và khả năng gia tăng tín dụng, giảm lãi suất để hỗ trợ tăng trưởng là thưc tế khó khăn. Ngoài ra,về phía cầu chi tiêu của người tiêu dùng (NTD) bị ảnh hưởng do lạm phát gia tăng và chi phí đầu vào đắt đỏ sẽ là những khó khăn không nhỏ ảnh hưởng đến đầu tư và tăng trơngr của nền kinh tế.
Trong bối cảnh Thế giới trước nguy cơ suy thoái, những yếu tố ảnh hưởng tới tăng trưởng ở Việt Nam khá rõ cả về cung và cầu qua yếu tố bất lợi từ tình hình kinh tế thế giới và những điểm nghẽn trong nước, các nhà dự báo và hoạch định chính sách đã phải điều chỉnh khả năng tăng trưởng của nền kinh tế. Theo đó, những dự báo phát triển của 2023 đều giảm so với 2022 với mức tăng trưởng cả năm chỉ đạt từ 6,3% đến 6,5%^.
Khuyến nghị chính sách từ góc nhìn nghiên cứu
Thực tiễn phát triển KT-XH nước ta cho thấy, muốn nền kinh tế hồi phục và phát triển bền vững, ngoài những giải pháp ứng phó linh hoạt trước những cú sốc, điều cơ bản phải là cải thiện được nền tảng tăng trưởng, nhất là về thể chế kinh tế.
Từ những kinh nghiệm đúc kết trong quá trình Đổi mới và chống chọi với đại dịch Covid-19, các nhà nghiên cứu đã có những khuyến nghi chính sách cho năm 2023, tập trung vào Đổi mới thể chế kinh tế, tiền tệ và tỷ giá, làm lành mạnh tài chính và phát triển ổn định thị trường bất động sản. Dưới đây là những nội dung cụ thể gợi ra.
Đổi mới thể chế kinh tế
Những bài hoc rút ra trong quá trình phát triển đất nước cho thấy, cần tìm ra những điểm nghẽn quan trọng nhất là về thể chế để tháo gỡ. Thưc tiễn giai đoạn 2020-2022 cũng đã chỉ ra, sau ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19, năm 2022 nền kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng rất ấn tượng nhờ giải pháp ứng phó linh hoạt và quan trọng là tìm ra được những nút thắt thể chế để tháo gỡ. Từ đây, khuyến nghi quan trọng đưa ra là Cần kiên trì cải thiện nền tảng vĩ mô và giảm thiểu những rủi ro trong tương lai của nền kinh tế..
Về chính sách Tài khóa
Trong những giai đoạn khó khăn đặc, biệt từ những tổn thương do đại dịch Covid-19 tác động đén nền kinh tế, chính sách tài khóa luôn giữ vai trò quan trọng để hỗ trợ phục hồi kinh tế. Chính sách tài khóa đã thúc đẩy đầu tư công, xây dựng kết cấu hạ tầng, đảm bảo an sinh xã hội và hỗ trợ việc làm. Theo đề xuất của các nhà nghiên cứu, trong thực thi chính sách cần đảm bảo nỗ trợ rõ ràng và minh bạch, cần giảm thiểu phiền hà về thủ tục và quy trình tiếp cận các gói hỗ trợ. Chính phủ cũng cần có giải pháp cả ngắn và dài hạn nhằm đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công. Trong ngắn hạn cần nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu, điều chuyển vốn cho những dự án quan trọng, đẩy nhanh hơn tiến độ và giải ngân vốn đầu tư từ nguồn ngân sách T.W’
Về chính sách tiền tệ và tỷ giá
Các nhà phân tích cho rằng, trong những ràng buộc cần lựa chọn chính sách tiền tệ độc lập là mục tiêu quan trọng. Về dài hạn, khi chính sách lạm phát mục tiêu và thị trường tài chính lành mạnh, có cơ chế kiểm soát rủi ro cần thực hiện theo lộ trình tự do hóa tài khoản vốn, đồng nghĩa với việc NHTM chuyển sang cơ chế quản lý tỷ giá linh hoạt.. Trong ngắn hạn, có thể thả nổi tỷ giá, song việc điều hành cần được cân nhắc kỹ lưỡng theo sát diễn biến của quan hệ cung cầu ngoại tệ, nhằm tránh những cú sốc khi nền tảng vĩ mô chưa ổn định. Do vậy,NHNN cần chấp nhận ổn định tỷ giá ở mức độ nhất định, gia tăng dự trữ ngoại hối đi cùng biện pháp trung hòa hiệu lực phù hợp với chi phí phát sinh;song mấu chốt vẫn là cách quản lý vốn hiệu quả. Trong bối cảnh tự do hóa giao dịch vốn theo thông lệ và cam kết hội nhập vẫn còn nhiều khu vực có thể kiểm soát chặt chẽ hơn, đặc biêt là kiểm tra nợ nước ngoài.
Từ những gợi ý nêu ra, trong năm 2023, NHNN cần áp dụng công cụ hạn mức tín dụng, có tỷ lệ phân bổ theo chất lượng của các NHTM. Có thể cân nhắc để dừng gói hỗ trợ lãi suât 2% không mấy hiệu quả trong Chương trình phục hồi kinh tế.
Nhằm lành mạnh hóa tài chính, các nhà nghiên cứu nhận thấy, hệ thống Ngân hàng cần kiểm soát chặt chẽ hơn tăng trưởng nóng của thị trường tài sản, đặc biệt là cung tiền cho thị trường BĐS và nắn dòng tiền vào khu vực kinh tế thực hoặc lan tỏa bằng biện pháp kiểm soát tín dụng có chọn lọc. Theo đó, cần cần kiểm tra chặt chẽ rủi ro tín dụng trong các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như đầu tư TPDN, kinh doanh chứng khoán, BĐS; đẩy mạnh xử lý nợ xấu thông qua cơ cấu lại, xử lý các TCTD yếu kém, hỗ trợ để những tổ chức này từng bước phục hồi.
Đối với thị trường chứng khoán Ngoai khắc phục những bất câp, vướng mắc; khôi phục niềm tin và đảm bảo sự phát triển minh bạch và bền vững cần xử lý ngay TPDN đáo hạn, tăng cường hoạt đông thanh kiểm tra nhằm xử lý kịp thời những sai phạm; đẩy mạnh công tác tuyên truyền và cung cấp thông tin chính thống nhằm cung cấp nhận thức, hiểu biết và kỹ năng, giúp các nhà đầu tư tham gia thị trường an toàn và hiệu quả.
Đối với thị trường bất động sản
Thị trường BĐS phụ thuộc vào sự hoàn thiện và tính phổ biến của thị trường và nhất là mức độ phát triển của nền kinh tế, Quá trình hình thành và phát triển của thị trường BĐS Việt Nam thể hiện sự đan xen giữa các cấp độ thị trường.Với sự ra đời của luật kinh doanh BĐS và luật nhà ở vào năm 2014, thị trường BĐS bắt đầu phát triển, năm 2018 là giai đoạn có nguồn cung lớn nhất. Từ thực trạng phát triển và những vấn đề nảy sinh, các nhà nghiên cứu đã có những khuyến nghị về chính sách ổn định và phát triển thị trường bất động sản. Những đề xuất đã tập trung vào các nhóm giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật; diều chỉnh cung cầu, minh bạch thông tin và khơi thông nguồn vốn cho thị trường,
Đối với hoàn thiện hệ thống luật pháp, các nhà nghiên cứu đã tập trung vào những đề xuất nhằm hoàn thiện thể chế và hệ thống luật pháp. Theo đó Quốc hội cần sớm xem xét để thông qua những bộ Luật có liên quan theo hướng phù hợp với thực tiễn và đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất nhằm tháo gỡ khó khăn bất cập pháp lý trong đầu tư kinh donh BĐS;
Để chống đầu cơ BĐS, khuyến ngị nêu bật việc hoàn thiện chính sách, sử dụng chính sách thuế để điêu tiết thu nhập từ sử dụng chuyển nhượng BĐS và gián tiếp điều chỉnh hành vi đầu cơ.
Đối với điều chỉnh cung cầu và gia tăng tính minh bạch thông tin, kiến nghị đã nhấn mạnh, hoàn thiện cơ chế chính sách nhằm tăng nguồn cung và đa dạng hóa sản phẩm thị trường. Qua đó cần khẩn trương kết luận các dự án được triển khai, tháo gỡ khó khăn pháp lý; tăng cường công tác quản lý và kiểm soát, đảm bảo để thị trường phát triển cân đối giữa cung và cầu.
Về nguồn vốn cho thị trường là giải pháp quan trọng cho phát triển, khuyến nghị cho rằng cần mở rộng tín dụng hợp lý. Theo đó, cần ban hành các chỉ tiêu cho vay đối với các loại BĐS khác nhau, đi cùng kiểm tra chất lượng tín dụng và thẩm định, giám sát sử dụng vốn vay cần hạn chế nợ xấu phát sinh. Với nguồn vốn từ phát hành trái phiếu doanh nghiệp, các nhà phân tích đề xuất cần phân vùng doanh nghiệp phát hành tái phiếu, tăng cường theo dõi, giám sát và ngăn ngừa việc chuyển vốn trực tiếp giữa các NHTM và gián tiếp thông qua tổ chức chứng khoán và công ty quản lý quỹ.
Phân tích cơ hội và thách thức, đánh giá triển vọng từ đó đề xuất những khuyến nghị chính sách điều hành kinh tế năm 2023 và những năm tiếp theo là việc làm rất thiết thực để đóng góp vào ổn định kinh tế vĩ mô và phát triển bền vững đất nước. Hy vọng những nội dung đóng góp và khuyến nghị của các nhà khoa học trong báo cáo đánh giá kinh tế thường niên 2022 và những khuyến nghị chính sách điều hành kinh tế năm 2023 sẽ được các nhà hoạch định chính sách quan tâm vận dụng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội nước nhà./.