Nghị quyết 68: Mở đường cho giai đoạn phát triển mới của kinh tế tư nhân

Gần 40 năm thực hiện đường lối Đổi mới, vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế Việt Nam ngày càng được khẳng định. Với hơn 940.000 doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động, 5 triệu hộ kinh doanh cá thể và hàng chục triệu lao động, khu vực này đã đóng góp khoảng 50% GDP, 30% thu ngân sách và hơn 80% việc làm cho toàn xã hội. Tuy nhiên, trong một thời gian dài, kinh tế tư nhân vẫn bị đặt trong tư thế “thứ yếu”, thiếu sự bình đẳng thực sự về cơ hội tiếp cận nguồn lực, thông tin, đất đai, tín dụng… Tình trạng chưa nhất quán giữa chủ trương và chính sách khiến niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp nhiều lúc bị bào mòn.

Chính vì vậy, việc Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025, đánh dấu một bước chuyển mình mang tính đột phá trong tư duy và chính sách phát triển kinh tế tại Việt Nam. Nghị quyết không chỉ khẳng định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc dân, thay vì chỉ là một động lực như trước đây, mà còn đặt khu vực này vào vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển đất nước.

Định hướng và mục tiêu phát triển kinh tế tư nhân

Nghị quyết đưa ra nhiều nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm, bao trùm các khía cạnh từ nhận thức, thể chế đến huy động nguồn lực và phát triển đội ngũ doanh nhân, với những mục tiêu định lượng to lớn.

Đến năm 2030, Việt Nam phấn đấu có 2 triệu doanh nghiệp hoạt động, đạt tỷ lệ 20 doanh nghiệp/nghìn dân. Đặc biệt, Nghị quyết đặt mục tiêu có ít nhất 20 doanh nghiệp tư nhân lớn đủ sức tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.

kttn1-1752823099.jpg
Tổng Bí thư Tô Lâm, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn và đại biểu thăm quan triển lãm một số thành tựu của kinh tế tư nhân.

Về tốc độ tăng trưởng, kinh tế tư nhân được kỳ vọng đạt bình quân khoảng 10 - 12%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. Khu vực này sẽ đóng góp đáng kể vào GDP (khoảng 55 - 58%), tổng thu ngân sách nhà nước (khoảng 35 - 40%), và giải quyết việc làm cho khoảng 84 - 85% tổng số lao động. Năng suất lao động cũng được đặt mục tiêu tăng bình quân khoảng 8,5 - 9,5%/năm.

Về trình độ công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, kinh tế tư nhân Việt Nam phấn đấu thuộc nhóm 3 nước đứng đầu ASEAN và nhóm 5 nước đứng đầu khu vực châu Á.

Tầm nhìn đến năm 2045, Nghị quyết hướng tới một nền kinh tế tư nhân Việt Nam phát triển nhanh, mạnh, bền vững, chủ động tham gia vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu, có năng lực cạnh tranh cao trong khu vực và quốc tế. Mục tiêu là có ít nhất 3 triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế, đóng góp khoảng trên 60% GDP.

Những mục tiêu cụ thể này thể hiện quyết tâm mạnh mẽ của Bộ Chính trị trong việc tạo đà cho kinh tế tư nhân bứt phá, khẳng định vai trò tiên phong trong sự phát triển thịnh vượng của đất nước.

Tổng Bí thư Tô Lâm đã có những đánh giá sâu sắc và quan trọng về Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân. Những nhận định của ông không chỉ làm rõ tầm vóc và ý nghĩa chiến lược của Nghị quyết mà còn định hướng rõ ràng cho việc triển khai thực hiện trong thời gian tới, khẳng định đây là một "cú hích lớn" cho khu vực kinh tế tư nhân.

Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định Nghị quyết 68 định hình quan điểm mới của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là một văn kiện đặc biệt quan trọng với các mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp đột phá, chưa từng có tiền lệ. Trong bài viết "Động lực mới cho phát triển kinh tế" và các phát biểu tại Hội nghị quán triệt Nghị quyết 68, Tổng Bí thư nhấn mạnh rằng Nghị quyết 68 lần đầu tiên khẳng định "kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc dân". Điều này đánh dấu sự chuyển đổi từ vị trí thứ yếu trở thành trụ cột phát triển, song hành cùng kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, tạo thành thế "kiềng ba chân" vững chắc cho nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập thành công.

emagazine-2025-03-17-tbt-kinh-te-tu-nhan-img-0120250318111235-1752823642.jpg

Tổng Bí thư Tô Lâm cũng đặc biệt nhấn mạnh rằng Nghị quyết 68 không chỉ công nhận vai trò của kinh tế tư nhân mà còn trân trọng, nuôi dưỡng tinh thần kinh doanh, khẳng định vai trò của doanh nhân là những "chiến sĩ trên mặt trận kinh tế". Điều này có ý nghĩa to lớn, hóa giải những định kiến kéo dài nhiều thập kỷ về sự đối lập giữa chủ nghĩa xã hội và kinh tế tư nhân. Ông cho rằng việc phát triển kinh tế tư nhân không chỉ là yêu cầu về mặt kinh tế mà còn là một mệnh lệnh chính trị cấp bách, nhằm củng cố nền tảng tự chủ kinh tế quốc gia và hội nhập sâu rộng, nâng cao sức cạnh tranh và khả năng thích ứng trong một thế giới đầy biến động.

Tổng Bí thư đánh giá Nghị quyết 68 đã mở đường cho các cải cách thể chế, bảo vệ quyền sở hữu và quyền tự do kinh doanh, tạo sân chơi bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước và tư nhân, đặc biệt trong các lĩnh vực như đấu thầu, tiếp cận đất đai, và tín dụng. Các giải pháp trong Nghị quyết được nhìn nhận là rất toàn diện, chi tiết và cụ thể, đặc biệt là việc chuyển đổi cơ chế từ "tiền kiểm" sang "hậu kiểm" nhằm tháo gỡ rào cản, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tự do kinh doanh.

Tổng Bí thư Tô Lâm xem Nghị quyết 68 là một trong "bộ tứ trụ cột" quan trọng của Bộ Chính trị ban hành trong thời gian gần đây, cùng với Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; Nghị quyết 66-NQ/TW về đổi mới toàn diện công tác xây dựng và thi hành pháp luật; và Nghị quyết 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế. Ông nhận định đây là những thể chế nền tảng, tạo động lực mạnh mẽ đưa đất nước tiến lên trong kỷ nguyên mới, giúp Việt Nam "cất cánh". Để Nghị quyết đi vào cuộc sống, Tổng Bí thư Tô Lâm cũng chỉ rõ những công tác cấp bách, yêu cầu phải có chiến lược rõ ràng cho phát triển khu vực kinh tế tư nhân, phù hợp với trình độ phát triển hiện nay của nền kinh tế và không gian địa kinh tế, địa chính trị mới của đất nước. Ông nhấn mạnh sự cần thiết của việc luật hóa các chủ trương lớn, đồng bộ hóa hệ thống pháp luật, và xoá bỏ mọi định kiến, tư duy tiểu nông, manh mún để xây dựng tư duy công nghiệp, làm ăn lớn.

Kinh tế tư nhân là lực lượng tiên phong thúc đẩy tăng trưởng

Nghị quyết của Bộ Chính trị nêu rõ việc đổi mới tư duy và có những giải pháp đột phá để phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò của kinh tế tư nhân là yêu cầu cấp bách. Đồng thời đưa ra 5 quan điểm chỉ đạo cốt lõi, thể hiện sự thay đổi mạnh mẽ trong tư duy và nhận thức về vai trò của kinh tế tư nhân:

Thứ nhất, kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất: Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, là lực lượng tiên phong thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh quốc gia, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng xanh, tuần hoàn, bền vững; cùng kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân giữ vai trò nòng cốt để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả, đưa đất nước thoát khỏi nguy cơ tụt hậu, vươn lên phát triển thịnh vượng.

de-xuat-danh-muc-dich-vu-xuat-khau-nhap-khau-viet-nam-gom-12-nhom-dich-vu1597910550-17413966428261926368369-1741416260782-1741416260888930265305-1752824046.jpg
Kinh tế tư nhân – động lực quan trọng nhất cho tăng trưởng kinh tế.

Thứ hai, nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách và chiến lược lâu dài: Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao vừa là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, vừa mang tính chiến lược lâu dài; cần được cụ thể hóa trong các chiến lược, chính sách phát triển đất nước; nhằm phát huy mọi tiềm năng, thế mạnh, giải phóng sức sản xuất và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực, nhất là nguồn lực trong nhân dân cho phát triển kinh tế - xã hội, củng cố và tăng cường quốc phòng, an ninh, tăng cường đối ngoại và hội nhập quốc tế.

Thứ ba, xóa bỏ triệt để định kiến và bảo đảm quyền bình đẳng: Xóa bỏ triệt để nhận thức, tư tưởng, quan niệm, thái độ định kiến về kinh tế tư nhân Việt Nam; đánh giá đúng vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân đối với phát triển đất nước; nuôi dưỡng, khuyến khích tinh thần kinh doanh, đổi mới sáng tạo của người dân, doanh nghiệp, tôn trọng doanh nghiệp, doanh nhân, xác định doanh nhân là người chiến sĩ trên mặt trận kinh tế; bảo đảm đầy đủ quyền sở hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh, quyền cạnh tranh bình đẳng; được tự do kinh doanh các ngành nghề pháp luật không cấm; tạo dựng, củng cố niềm tin giữa Nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp và doanh nhân; bảo đảm kinh tế tư nhân cạnh tranh bình đẳng với các thành phần kinh tế khác trong tiếp cận cơ hội kinh doanh và các nguồn lực của nền kinh tế, nhất là vốn, đất đai, công nghệ, nhân lực, dữ liệu và các nguồn lực hợp pháp khác của đất nước theo quy định của pháp luật.

Thứ tư, tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, đạt chuẩn quốc tế: Tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch, ổn định, an toàn, dễ thực thi, chi phí thấp, đạt chuẩn quốc tế; bảo đảm khả năng cạnh tranh khu vực, toàn cầu. Kịp thời xây dựng, hoàn thiện pháp luật và cơ chế, chính sách đột phá để khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển trong những lĩnh vực ưu tiên, đầu tư nghiên cứu phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, tham gia vào các nhiệm vụ quan trọng, chiến lược quốc gia và vươn tầm khu vực, thế giới; thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp sáng tạo, chuyển đổi số và làm giàu hợp pháp, chính đáng.

Thứ năm, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, kiến tạo của Nhà nước và phát triển đội ngũ doanh nhân: Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, kiến tạo của Nhà nước, lấy doanh nghiệp là trung tâm, là chủ thể; chú trọng đào tạo đội ngũ doanh nhân có đạo đức, văn hóa kinh doanh, bản lĩnh, trí tuệ, năng động, sáng tạo, nỗ lực vươn lên; tôn vinh, cổ vũ, phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh, có tinh thần yêu nước, tự tôn dân tộc, khát vọng cống hiến, thượng tôn pháp luật, tích cực thực hiện trách nhiệm xã hội.

Những nhiệm vụ, giải pháp tháo gỡ điểm nghẽn cho kinh tế tư nhân

Để hiện thực hóa các mục tiêu đầy tham vọng về phát triển kinh tế tư nhân, Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị đã đưa ra 8 nhóm nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm nhằm tháo gỡ các điểm nghẽn cố hữu, tạo môi trường thuận lợi và động lực mạnh mẽ cho khu vực này. Đây là những định hướng toàn diện, từ thay đổi nhận thức đến cải cách thể chế và hỗ trợ nguồn lực.

(1) Đổi mới tư duy, thống nhất nhận thức và hành động, khởi dậy niềm tin, khát vọng dân tộc. Nhóm giải pháp đầu tiên tập trung vào việc thay đổi gốc rễ, đó là nhận thức. Nghị quyết nhấn mạnh sự cần thiết phải có sự nhất quán về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân trong toàn bộ hệ thống chính trị và xã hội. Quan điểm "Nhà nước kiến tạo, phục vụ, không can thiệp hành chính trái nguyên tắc thị trường" là kim chỉ nam, hướng tới xây dựng mối quan hệ cởi mở, thân thiện giữa chính quyền và doanh nghiệp. Việc đẩy mạnh truyền thông để khơi dậy tinh thần kinh doanh, đồng thời nghiêm cấm các hành vi tiêu cực, nhũng nhiễu sẽ góp phần xây dựng niềm tin và khát vọng cống hiến trong cộng đồng doanh nghiệp.

 

(2) Cải cách thể chế, bảo vệ quyền tài sản và tự do kinh doanh. Đây là nhóm giải pháp trọng tâm, trực tiếp xử lý các rào cản pháp lý và hành chính. Nghị quyết yêu cầu đẩy mạnh cải cách, hoàn thiện thể chế, chính sách theo hướng thị trường, giảm thiểu cơ chế "xin – cho" và đảm bảo quyền tự do kinh doanh những ngành nghề pháp luật không cấm. Mục tiêu cụ thể rất rõ ràng: đến năm 2025, cắt giảm ít nhất 30% thời gian xử lý thủ tục, 30% chi phí tuân thủ, và 30% điều kiện kinh doanh. Đến năm 2028, môi trường kinh doanh của Việt Nam phấn đấu lọt vào top 3 ASEAN và top 30 thế giới.

Một điểm đột phá quan trọng là chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm, cùng với việc sửa đổi Luật Phá sản và đẩy mạnh tố tụng điện tử, nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động linh hoạt hơn. Nghị quyết cũng cam kết không phân biệt đối xử trong tiếp cận nguồn lực, hoàn thiện chính sách thuế, phí công bằng, và xây dựng khung pháp lý cho các mô hình kinh tế mới như Fintech, AI, tài sản ảo. Đặc biệt, có các chính sách hỗ trợ riêng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) như bãi bỏ lệ phí môn bài, miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 3 năm đầu, và ưu tiên DNNVV tham gia mua sắm công.

26-kinh-te-tu-nhan-1752824586.jpg
Kinh tế tư nhân là lực lượng tiên phong thúc đẩy tăng trưởng.

(3) Tạo thuận lợi cho kinh tế tư nhân tiếp cận nguồn lực (đất đai, vốn, nhân lực). Nghị quyết nhận diện rõ những khó khăn của doanh nghiệp tư nhân trong việc tiếp cận các nguồn lực thiết yếu. Về đất đai, yêu cầu hoàn thành cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai trong năm 2025, công khai thông tin và giảm thời gian thủ tục. Chính sách biệt đãi được đưa ra là cho phép địa phương dùng ngân sách hỗ trợ hạ tầng KCN, CCN để dành quỹ đất (tối thiểu 20ha/khu hoặc 5% quỹ đất) cho doanh nghiệp công nghệ cao, DNNVV, khởi nghiệp sáng tạo thuê, kèm theo việc giảm 30% tiền thuê đất trong 5 năm đầu. Về vốn, khuyến khích cho vay dựa trên dòng tiền, chuỗi giá trị, tài sản vô hình, phát triển tín dụng xanh và hỗ trợ lãi suất cho các dự án ESG. Nghị quyết cũng hướng tới việc hoàn thiện các quỹ hỗ trợ tín dụng, nghiên cứu cho phép định chế tài chính huy động vốn từ quỹ BHXH, hưu trí, và nâng hạng thị trường chứng khoán. Về nhân lực, chú trọng phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục chất lượng cao, khuyến khích liên kết đào tạo quốc tế, và triển khai chương trình đào tạo 10.000 giám đốc điều hành, thúc đẩy đào tạo kỹ năng sáng tạo, STEM, ngoại ngữ, kỹ năng số.

(4) Thúc đẩy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh. Nhận thấy tầm quan trọng của công nghệ trong bối cảnh hiện nay, Nghị quyết đề xuất các giải pháp mạnh mẽ để khuyến khích đổi mới sáng tạo. Điển hình là việc cho phép tính chi phí R&D vào chi phí được trừ thuế thu nhập doanh nghiệp với tỷ lệ 200% chi phí thực tế, hỗ trợ chi phí đầu tư công nghệ, chuyển đổi số, xanh qua khấu trừ thuế hoặc tài trợ. Doanh nghiệp cũng được phép trích tối đa 20% thu nhập tính thuế lập quỹ KHCN, đổi mới sáng tạo, và sử dụng phòng thí nghiệm, thiết bị nghiên cứu của Nhà nước với phí hợp lý. Đặc biệt, miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân cho chuyên gia làm việc tại doanh nghiệp, trung tâm đổi mới sáng tạo.

(5) Tăng cường kết nối giữa các doanh nghiệp. Nghị quyết hướng tới việc xây dựng các chuỗi liên kết bền vững, khuyến khích doanh nghiệp lớn dẫn dắt chuỗi cung ứng nội địa. Các doanh nghiệp lớn chuyển giao công nghệ và hỗ trợ DNNVV sẽ được hưởng ưu đãi, chi phí đào tạo của họ cho DNNVV cũng được trừ thuế thu nhập doanh nghiệp. Việc hỗ trợ kết nối doanh nghiệp FDI và nội địa, áp dụng tỷ lệ nội địa hóa phù hợp, và hỗ trợ khởi nghiệp cho cán bộ từng làm việc tại FDI cũng là những điểm nhấn quan trọng.

(6) Hình thành và phát triển doanh nghiệp lớn, tập đoàn tư nhân tầm cỡ Đây là một điểm đột phá thể hiện tầm nhìn dài hạn của Nghị quyết. Nhà nước sẽ mở rộng sự tham gia của tư nhân vào các dự án quan trọng quốc gia, chủ động đặt hàng, đấu thầu hạn chế, chỉ định thầu hoặc ưu đãi cho tư nhân tham gia các lĩnh vực chiến lược như đường sắt tốc độ cao, năng lượng, hạ tầng số, quốc phòng... Đồng thời, thúc đẩy tư nhân đầu tư vào y tế, giáo dục chất lượng cao, công nghiệp văn hóa và đa dạng hóa mô hình hợp tác công tư (PPP). Các chương trình như "phát triển 1.000 doanh nghiệp tiên phong về KHCN, đổi mới sáng tạo" và “Go Global” sẽ hỗ trợ doanh nghiệp vươn ra quốc tế.

(7) Hỗ trợ thực chất, hiệu quả doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ và hộ kinh doanh. Nghị quyết đặc biệt quan tâm đến phân khúc này, với việc hoàn thiện pháp lý về kinh doanh cá thể, khuyến khích chuyển đổi thành doanh nghiệp, đơn giản hóa chế độ kế toán, thuế, bảo hiểm. Đáng chú ý là việc xóa bỏ thuế khoán chậm nhất vào năm 2026. Nhà nước cũng cam kết cung cấp miễn phí nền tảng số, phần mềm kế toán, tư vấn pháp lý, đào tạo, và thúc đẩy tiếp cận tài chính cho các nhóm yếu thế.

(8) Đề cao đạo đức kinh doanh, trách nhiệm xã hội, tinh thần doanh nhân. Nghị quyết không chỉ tập trung vào khía cạnh kinh tế mà còn nhấn mạnh việc xây dựng một đội ngũ doanh nhân có đạo đức, văn hóa kinh doanh, khát vọng cống hiến. Việc đánh giá doanh nghiệp theo chuẩn quốc tế dựa trên tuân thủ pháp luật, tạo việc làm, đóng góp ngân sách, an sinh xã hội sẽ thúc đẩy trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Đồng thời, khuyến khích tinh thần khởi nghiệp, đưa đào tạo khởi nghiệp vào giáo dục, và phát huy vai trò phản biện chính sách của doanh nghiệp, hiệp hội.

Nhìn chung, 8 nhóm nhiệm vụ và giải pháp này thể hiện một cách tiếp cận toàn diện và quyết liệt, nhằm tháo gỡ triệt để các rào cản, tạo động lực mạnh mẽ và bền vững cho kinh tế tư nhân phát triển, đóng góp vào sự thịnh vượng chung của đất nước. Thủ tướng Phạm Minh Chính đã đưa ra những đánh giá hết sức tích cực và chỉ đạo sát sao việc triển khai Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, coi đây là một "cuộc cách mạng về tư duy và thể chế" đầy đột phá. Thủ tướng nhấn mạnh rằng Nghị quyết này đã được cả hệ thống chính trị và toàn dân, đặc biệt là cộng đồng doanh nghiệp, nhiệt liệt hưởng ứng như một bước tiến phát triển.

tt-pmc2-1752824185.jpg
Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì phiên họp lần thứ hai của Ban Chỉ đạo xây dựng đề án phát triển kinh tế tư nhân.

Trong các hội nghị và buổi làm việc, Thủ tướng đã làm rõ những điểm cốt lõi trong đánh giá của mình. Ông khẳng định Nghị quyết 68 là sự phát triển đột phá về tư duy của Đảng và Nhà nước, không chỉ kế thừa mà còn tạo lập và củng cố niềm tin, thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá. Đặc biệt, việc Nghị quyết lần đầu tiên xác định kinh tế tư nhân là "một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc dân" cho thấy sự thay đổi căn bản trong nhận thức, đưa khu vực này vào vị trí trung tâm, đóng vai trò nòng cốt. Thủ tướng cũng đánh giá cao tính toàn diện và cụ thể của các giải pháp, đặc biệt là sự chuyển đổi từ cơ chế "tiền kiểm sang hậu kiểm" giúp tháo gỡ rào cản, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho doanh nghiệp.

Thủ tướng Phạm Minh Chính xem Nghị quyết 68 như "lời cam kết cao nhất" của Đảng và Nhà nước về việc đồng hành cùng doanh nghiệp, củng cố niềm tin để họ yên tâm đầu tư và phát triển. Để Nghị quyết thực sự đi vào cuộc sống, ông đã chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương phải khẩn trương xây dựng kế hoạch hành động, giao nhiệm vụ rõ ràng theo nguyên tắc "6 rõ" (rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ thẩm quyền, rõ thời gian, rõ kết quả). Quyết định thành lập Ban Chỉ đạo Quốc gia triển khai Nghị quyết 68-NQ/TW do chính ông làm Trưởng ban thể hiện quyết tâm cao của Chính phủ. Ông kêu gọi các doanh nghiệp, hộ kinh doanh cần tuân thủ pháp luật, loại bỏ tư duy "chộp giật", đổi mới quản trị, nâng cao năng lực và liên kết phát triển, khuyến khích các doanh nghiệp lớn dẫn dắt, hỗ trợ DNNVV vươn lên.

Có thể thấy, Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị thực sự là một chủ trương lớn mang tính lịch sử, mở ra cơ hội chưa từng có để kinh tế tư nhân bứt phá mạnh mẽ. Với tầm nhìn chiến lược này, khu vực kinh tế tư nhân sẽ đóng góp quan trọng vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước, hướng tới mục tiêu xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ và thịnh vượng. Giờ đây, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam có đầy đủ cơ sở để hành động quyết liệt, vận dụng hiệu quả các chính sách mới, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ tiên tiến và chủ động hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Tinh thần khởi nghiệp sẽ bùng lên mạnh mẽ hơn bao giờ hết, tạo điều kiện để mỗi doanh nghiệp không chỉ làm giàu chính đáng cho bản thân mà còn trở thành những nhân tố kiến tạo, góp phần xây dựng nền kinh tế Việt Nam ngày càng hùng cường, bền vững và ghi dấu ấn rõ nét trên bản đồ kinh tế thế giới./.