Phát triển kinh tế xã hội Việt Nam theo góc nhìn của ngân hàng thế giới

Theo Ngân hàng Thế giới (W.B) tại Việt Nam, chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường đã giúp Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới trở thành nước có thu nhập trung bình và là một trong những quốc gia năng động nhất ở khu vực Đông Á Thái Bình Dương.

Lãnh đạo W.B nhận xét, Việt Nam là một câu chuyện phát triển thành công. Những cải cách kinh tế từ năm 1986, kết hợp cùng xu hướng toàn cầu thuận lợi đã nhanh chóng giúp Việt Nam phát triển từ một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới trở thành nước có thu nhập trung bình với GDP bình quân đầu người tăng gấp 6 lần trong chưa đầy 40 năm (từ dưới 600 USD/người năm lên gần 3.700 USD và năm 2023 đã đạt bình quân trên 4.284 USD). Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn 3,65 USD/người ngày đã từ trên 14% của năm 2010 giảm xuống còn 4,2% trong năm 2020. Thời gian qua, khả năng tiếp cận hạ tầng cơ sở đã được cải thiện. Tính đến năm 2019, 99,4% dân số được sử dụng điện chiếu sáng, so với năm 1993 mới đạt 14%. Tỷ lệ tiếp cận nước sạch nông thôn được cải thiện rõ rệt (từ 17% năm 1993 tăng lên 51% trong năm 2020).

Nhờ nền tảng vững chắc, kinh tế Việt Nam đã thể hiện sức chống chịu đáng kể trong các giai đoạn khủng hoảng. Tăng trưởng kinh tế từ 5% của năm 2023 sẽ tăng lên 5,5%-6% trong năm 2024. Từ nhu cầu thế giới gia tăng và niềm tin của người tiêu dùng trong nước được nâng cao, tăng trưởng GDP sẽ hồi phục, đạt mức trung bình trước đại dịch vào năm 2026.

Với tỷ lệ tăng trưởng bình quân từ 2,5% đến 3,5% trong suốt 30 năm qua, ngành nông nghiệp đã hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an ninh lương thực. Năm 2020 nông nghiệp đóng góp 14% cho GDP và 38% vào tạo việc làm, Năm 2021 xuất khẩu nông sản đạt trên 48 tỷ USD trong bối cảnh đại dịch COVID-19 còn căng thẳng.

Ngành Y tế đạt nhiều tiến bộ khi mức sống ngày càng cải thiện. Tỷ suất tử vong trẻ sơ sinh đã giảm từ 32,6/1.000 năm 1993 xuống còn 16,7 trong năm 2020. Cùng với tỷ suất tử vong được cải thiện, tuổi thọ trung bình đã tăng từ 70,5 năm 1990 lên 75,45 trong năm 2020, chỉ số bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân là 73%, cao hơn mức trung bình khu vực và trên thế giới, trong đó 87% dân số đã có bảo hiểm y tế. 

Theo xếp hạng của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), số năm đi học bình quân của Việt Nam là 10,2 năm, đứng thứ hai khu vực sau Singapore. Chỉ số vốn con người đạt 0,69 trên thang điểm cao nhất là 1, đứng thứ nhất trong những nền kinh tế có thu nhập trung bình thấp.

sp-du-lich-1715566780.png
Sản phẩm du lịch trải nghiệm và nông nghiệp sạch (Ảnh minh họa)

Việt Nam đặt ra tầm nhìn phát triển tham vọng hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia phát triển có thu nhập cao vào năm 2045. Theo W.B, để đạt được mục tiêu này, nền kinh tế cần tăng trưởng với tốc độ thu nhập bình quân đầu người trên 6% trong 25 năm sắp tới.

Việt Nam đang hướng tới mục tiêu phát triển theo hướng xanh và bao trùm hơn. Tại COP27, lãnh đạo nhà nước Việt Nam đã cam kết giảm 30% lượng khí thải mêtan và chấm dứt nạn phá rừng vào năm 2030, đồng thời đạt phát thải carbon bằng 0 vào năm 2050. Nhằm đạt được các mục tiêu này, Việt Nam đã phê duyệt đề án “Một triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp”. Tại COP28, Ngân hàng Thế giới đã tích cực hợp tác với Việt Nam trong việc thiết kế và thực hiện đề án này.

Tương lai của Việt Nam đang được định hình bởi những xu thế lớn, dân số đang già đi nhanh chóng, thương mại toàn cầu suy giảm, trong khi suy thoái môi trường và các vấn đề biến đổi khí hậu ngày một gia tang, đại dịch COVID-19 đặt ra những thách thức chưa từng có, có thể làm chậm tiến trình đạt được các mục tiêu phát triển.

Theo Báo cáo Chẩn đoán Quốc gia của W.B, để vượt qua những thách thức và đáp ứng các mục

tiêu phát triển, Việt Nam cần cải thiện hiệu quả thực thi chính sách, đặc biệt trong các lĩnh vực tài chính, môi trường, chuyển đổi số, giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội và xây dựng cơ sở hạ tầng./.