Khác với dòng tranh Đông Hồ và Hàng Trống, mặc dầu đến nay đã bị mai một, nhưng vẫn còn có nghệ nhân theo nghề, say sưa với nghề. Ngược lại tranh Kim Hoàng đã gần 100 năm biến mất, không còn một ai biết đến.
Tranh Kim Hoàng là tên thường gọi của một dòng tranh dân gian phát triển khá mạnh từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX, ở làng Kim Hoàng, xã Vân Canh, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây cũ, nay là Hà Nội. Làng Kim Hoàng là sự hợp nhất hai làng Kim Bằng và Hoàng Bằng thành Kim Hoàng vào năm Chính Hoà thứ 22 (1701)1* và có lẽ cũng từ đó là tiền đề chuẩn bị cho sự ra đời của nghề in tranh của làng Kim Hoàng?
Hàng năm vào rằm tháng Một (tháng 11 Âm lịch), đến giáp Tết, người làng Kim Hoàng bắt đầu in tranh. Nhưng trước khi in tranh cả làng tiến hành cúng tổ nghề.
Tranh được in ra từ các ván in. Các ván in tranh do ông chủ phường có tài năng vẽ và khắc cất giữ. Ván in chỉ được phát cho các gia đình in tranh sau ngày giỗ tổ. Trong quá trình in, các gia đình đổi ván in cho nhau. Hết mùa tranh các gia đình giao nộp ván lại cho chủ phường.
Tranh Kim Hoàng gồm nhiều loại: Tranh thờ cúng, tranh chúc tụng như một số dòng tranh Đông Hồ, Hàng Trống, nhưng tranh Kim Hoàng biết kết hợp các ưu điểm của hai dòng tranh đàn anh này, nên tranh Kim Hoàng có nét khắc tinh tế, thanh mảnh và tỉ mỉ hơn tranh Đông Hồ và màu sắc tươi tắn hơn tranh Hàng Trống.
Về màu sắc tranh Kim Hoàng dùng mực tàu in đường nét, mầu trắng dùng thạch cao, phấn, màu chàm, xanh chàm dùng mực tàu hoà với nước chàm.
Khác với tranh Đông Hồ in trên giấy quét điệp, tranh Hàng Trống dùng giấy xuyến trắng, còn tranh Kim Hoàng phần lớn in trên giấy mầu đỏ, giấy hồng điều, giấy tàu vàng. Bởi thế người xưa gọi tranh Kim Hoàng là “tranh đỏ”.
Trước đây, để có bức tranh mầu đỏ rực rỡ, tươi tắn, nghệ nhân Kim Hoàng thường dùng những bản khắc gỗ thị, gỗ mít hay gỗ vàng tâm, với những nét khắc tinh xảo, kỹ thuật in ngửa ván.
Giấy hồng điều để vẽ tranh mua ở phố Hàng Mã, Hà Nội. Đây là loại giấy được sản xuất từ vỏ cây dó . Xơ dó kết lại với nhau tạo nên tờ giấy dó. Sự kết mạng này làm cho tờ giấy xốp, nhẹ, tạo mặt vân có những sợi dó, Để giảm bới độ loang nhoè của giấy dó, người ta dùng nước hồ và phèn chua cho vào một trong những công đoạn làm giấy. Hỗn hợp hồ - phèn chua càng nhiều thì độ loang của giấy càng giảm.
Khi in, người ta dùng những bản khắc gỗ có sẵn, quét mực tàu lên bản khắc, rồi đặt tờ giấy trên mặt bản khắc, thật phẳng và dùng xơ mướp khô xoa nhẹ, đều, để làm nổi rõ đường nét các hình, rồi đem phơi nắng. Chờ cho tranh khô, đem tô màu và vẽ thêm đường nét cho bức tranh sinh động hơn. Lối tô màu này gần giống tranh Hàng Trống, nhưng khác với tranh Đông Hồ, có ván in màu riêng. Vì vậy, làm tranh Kim Hoàng tốc độ chậm, nhưng cho những bức tranh đa dạng, phong phú.
Trong các kỹ thuật làm tranh Kim Hoàng thì khâu khắc ván in là khó nhất. Kỹ thuật khắc tranh Kim Hoàng cho thấy sự công phu từ khâu chọn gỗ thị (mít hay vàng tâm), phải có tính mềm, dẻo, bền, và không bị nứt. Để hoàn thành một bản khắc người thợ phải dùng tới 40 loại đục khác nhau và nhiều dao trổ khắc tranh.
Chổi để tô mầu, làm bằng rơm nếp, tạo độ mềm mại vừa phải và dễ điều chỉnh cho mỗi nét tô. Vì vậy, nhìn tranh Kim Hoàng nét vẽ mộc mạc, ngây ngô nhưng rất sinh động. Bởi vì tranh Kim Hoàng sinh ra từ miền quê nông thôn, nhằm phục vụ nông dân lao động và chính điều đó ảnh hưởng rất lớn đến màu sắc của tranh Kim Hoàng. Với người nông dân lao động mỗi độ xuân về Tết đến, là djp người ta đi mua sắm, nào câu đối, tranh màu đỏ mang về trang trí nhà cửa, nhằm hy vọng Năm Mới may mắn đến với mọi người.
Tranh Kim Hoàng màu sắc tự nhiên tươi tắn, rực rỡ. Màu sắc tự nhiên bao giờ cũng làm từ mầu thiên nhiên[A1] , nên sau một thời gian màu sẽ trong không bị đục mờ.
Đề tài tranh dân gian Kim Hoàng cũng rất phong phú được lấy từ chính cuộc sống mộc mạc giản dị quen thuộc của người nông dân đồng bằng Bắc Bộ, chân lấm tay bùn, nên dễ dàng đi vào lòng người. Đó là hình ảnh con trâu, con bò đang cày bừa trên đồng ruộng là con lơn đang ủn ỉn trong chuồng là con gà gáy sáng buổi bình minh…
Khác với tranh Đông Hồ Hàng Trống, tranh Kim Hoàng không chỉ có hình ảnh mà cón được trang trí những câu thơ chữ Hán, được viết theo lối chữ thảo, ở phía trên góc trái bức tranh, tạo cho bức tranh có một bố cực chặt. Hình vẽ và thơ thể hiện trên tranh tạo nên một sự hài hoà cả về nội dung lẫn hình thức. Có được bố cực này chứng tỏ nghệ nhân không chỉ thạo chữ Hán, mà còn có trình độ hiểu biết nhất định và cảm thụ được tứ thơ để phù hợp với tranh. Đó là đặc điểm nổi trội nhất của của tramh Kim Hoàng./.
1*) Đời vua Lê Hy Tông có hai niên hiệu: niên hiệu Vĩnh Trị (1/1676 – 9/1680) và niên hiệu Chính Hoà (10/1680 – 3/1705).