Từ tư tưởng ngoại giao cây tre suy ngẫm về phát triển tre Việt trong chuỗi giá trị kinh tế tuần hoàn

Những năm đã qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, kế thừa truyền thống văn hóa dân tộc, Việt Nam đã xây dựng được một trường phái đối ngoại độc đáo, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”. Tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc năm 2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ví ngoại giao Việt Nam là “ngoại giao cây tre”.

Hình tượng cây tre luôn gắn bó với làng quê, gắn với truyền thống dân tộc, đặc biệt là bản sắc ngoại giao trong thời đại Hồ Chí Minh. Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đánh giá cao vai trò hội nhập quốc tế và đối ngoại, khẳng định lĩnh vực này đã trở thành trụ cột đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân, góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm và từ xa.

Ngoại giao cây tre nét riêng độc đáo Việt Nam

Từ một nước bị bao vây, cấm vận sau chiến tranh đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc. Trong đó, có 6 nước là “đối tác chiến lược toàn diện” và 18 nước là “đối tác chiến lược”. Trên binh diện đa phương, Việt Nam là thành viên tích cực và có trách nhiệm cao của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng, Tổng Bí thư Đảng từng khẳng định: Đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Nhân dân và đối ngoại của các ngành, lĩnh vực, địa phương, doanh nghiệp ngày càng mở rộng đi vào chiều sâu. Hoạt động đối ngoại của Chính phủ trên các lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế, văn hóa-xã hội đã góp phần tăng cường sự tin cậy chính trị và đan xen lợi ích với các đối tác, củng cố quan hệ hữu nghị với nhân dân các nước, quảng bá sâu rộng công cuộc đổi mới, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam. Trong những thành tựu đó, có sự đóng góp không nhỏ của đối ngoại mang đậm bản sắc “ngoại giao cây tre”.

Ở Việt Nam, ngành sản xuất tre mang lại giá trị xuất khẩu từ 300 đến 400 triệu USD/năm. Cây tre không chỉ có giá trị về văn hóa và ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH) mà còn mang ý nghĩa lớn trong phát triển kinh tế.

Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (Bộ NN&PTNT) cùng Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI); các cấp, các ngành và nhiều tổ chức nghề nghiệp đã phối hợp nghiên cứu về " Phát triển ngành Tre Việt Nam theo chuỗi giá trị hàng hoá và định hướng mô hình kinh tế tuần hoàn”.

Ngành hàng tre Việt Nam thực trạng và tiềm năng phát triển

Bộ NN&PTNT đã xác định rõ vai trò, vị trí và giá trị của cây tre Việt Nam. Thứ trưởng Trần Thanh Nam cho rằng, Giá trị sử dụng hàng năm của cây tre chưa tính được hết, nhưng người nông dân trồng tre đang phải chịu áp lực trước nhiều cây trồng có giá trị kinh tế cao và thâm canh nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi… Để phát triển ngành hàng tre, ông cho rằng, doanh nghiệp cùng chính quyền các địa phương và Bộ NN&PTNT phải chung tay xây dựng những vùng quy hoạch nguyên liệu đáp ứng yêu cầu sản xuất, chế biến, xuất khẩu để hình thành chuỗi giá trị ngành hàng và xác định cho được vùng nguyên liệu  để liên kết sản xuất.

Tổng diện tích tre cả nước hiện có gần 1,6 triệu ha phân bố ở hầu hết các tỉnh, thành, trong đó, 37/63 tỉnh có diện tích trên 10.000 ha; hàng năm cả nước khai thác từ 500-đến 600 triệu cây tre với khoảng 2,5-3 triệu tấn sản phẩm, cho giá trị kim ngạch xuất khẩu từ 300 đến 400 triệu USD. Theo Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn Việt Nam, tài nguyên tre rất phong phú và đa dạng với 30 chi và 216 loài. Những loài có giá trị kinh tế cao là luồng, lùng, trúc sào, lồ ô, bương, tầm vông và tre gai…. Thị trường xuất khẩu sản phẩm tre chủ yếu là EU chiếm tới 25%, các thị trường còn lại như Hàn Quốc, Nhật Bản dao động trong khoảng 15%.

Theo xu hướng sản xuất xanh, tiêu dùng bền vững, chuyên gia trong ngành nhận xét, sản phẩm từ tre ngày càng được thị trường bên ngoài ưa chuộng. Với quy mô thị trường toàn cầu khoảng 83 tỷ USD vào năm 2028 và tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trên 5,7%/ năm tre sẽ là ngành hàng tiềm năng to lớn của ngành nông nghiệp Việt Nam.

Từ đặc thù sinh trưởng, tre là loài thực vật phát triển nhanh, cung cấp nguồn tài nguyên bền vững và có thể tái chế. Sản phẩm từ tre nhẹ, bền có thể thay thế gỗ tự nhiên và các hợp chất hóa học, tre đã trở thành loại vật liệu có khả năng chống chịu động đất, ngăn chặn xói mòn và phục hồi đất bị thoái hóa. Với khả năng hấp thụ carbon, tre sẽ góp phần tích cực vào giảm tác động BĐKH.

anh-chup-man-hinh-2024-07-04-luc-093148-1720060428.jpeg

Tre nguyên liệu sản xuất tại Cao Bằng

Cây tre cũng đóng vai trò quan trọng trong sinh kế của nông dân ở các địa phương, góp phần xóa đói giảm nghèo. Từ xu hướng sản xuất xanh, tiêu dùng bền vững, nhiều chuyên gia nhận xét, sản phẩm từ tre ngày càng được thị trường bên ngoài ưa chuộng. Với quy mô thị trường toàn cầu tre sẽ là ngành hàng tiềm năng to lớn trong ngành nông nghiệp.

Ở Việt Nam, tre đã trở thành nguồn nguyên liệu phục vụ cho trên 600 làng nghề mây tre đan, có vai trò to lớn trong đời sống kinh tế-xã hội; góp phần phát triển du lịch sinh thái và cảnh quan kiến trúc. Ngoài lưu giữ và bảo tồn các giá trị truyền thống của dân tộc; tre còn tạo sinh kế việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân ở vùng sâu, vùng xa.

Cây tre có vai trò quan trọng đối với sinh kế gia đình và kinh tế quốc dân, giúp người dân sử dụng nguyên liệu xanh thay gỗ tự nhiên và hợp chất hoá học, tre cũng góp phần tích cực vào mở mang phát triển du kịch sinh thái và cảnh quan kiến trúc.

Sản phẩm thủ công từ nguyên liệu tre

Trong điều kiện phát triển tự nhiên, Phó Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn Việt Nam từng lưu ý, giống tre ở nước ta đang có dấu hiệu suy thoái, nhiều vùng khai thác không tái tạo nên tre kém phát triển. Do trình độ khai thác thấp, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, lại thiếu chính sách hỗ trợ phát triển và sản xuất kinh doanh nên sản phẩm thiếu đa dạng và bền vững. Chất lượng chưa cao và thiếu gắn kết giữa các tác nhân trong chuỗi sản phẩm, đây là những nguyên nhân yếu kém trong xúc tiến thương mại, quảng bá và giới thiệu sản phẩm. Ngoài ra, thiếu thông tin, chưa có tiêu chuẩn và hành lang pháp lý hoạt động đã dẫn đến nhiều rào cản kinh doanh và ngành hàng chưa phát huy được hết tiềm năng.

anh-chup-man-hinh-2024-07-04-luc-093154-1720060428.png

Sản phẩm thủ công từ nguyên liệu tre

Từ những hạn chế của ngành, rất cần bảo tồn giá trị văn hóa và phát huy giá trị kinh tế của những sản phẩm chế biến từ tre. Đồng thời với đa dạng hoá sản phẩm, dùng tre làm vật liệu thay thế gỗ và nhiều hợp chất hóa học đang là xu thế thời đại, việc xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung để cấp chứng chỉ xuất khẩu là việc làm cần thiết trong quy hoạch ngành.

Phát triển ngành tre Việt Nam -  Định hướng và việc cần làm

Để tổ chức sản xuất hiệu quả, cần nghiên cứu cải tạo giống tre, áp dụng phương pháp trồng, chế biến mới vào sản xuất, xây dựng chuỗi liên kết giữa người dân, hợp tác xã với doanh nghiệp, vùng nguyên liệu với các làng nghề mây tre đan. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xác định, sẽ cùng các bộ, ban, ngành sớm hình thành Hiệp hội Tre Việt Nam. Coi đây là một trong những cơ sở tạo tiền đề gắn kết ngành theo chuỗi giá trị và phát triển công nghiệp chế biến tre trong tương lai.

Đến nay, tre có ít giống tốt và đang có dấu hiệu suy thoái, diện tích đang bị thu hẹp, trình độ canh tác thấp, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, hạ tầng phục vụ sản xuất như đường, điện… chưa được đầu tư. Ngoài ra, công nghệ chế biến còn lạc hậu, thiếu chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất kinh doanh và nguồn vốn đang còn hạn chế. Những hạn chế này dẫn đến sản phẩm lưu thông thiếu đa dạng, và chưa quan tâm đến quản lý chất lượng, tiêu thụ chủ yếu vẫn là thị trường nội địa. Nhìn chung, thị trường tre Việt Nam thiếu sự gắn kết giữa các tác nhân trong chuỗi sản phẩm cả về chiều dọc và chiều ngang, xúc tiến thương mại, quảng bá, giới thiệu sản phẩm còn yếu và thiếu thông tin thị trường.

Phân tích tổng quan thương mại cây tre trên thị trường toàn cầu, dự án Phát triển toàn diện chuỗi giá trị tre Việt Nam đã nhấn mạnh, quy mô thị trường tre toàn cầu sẽ lên tới 82,90 tỷ USD với tốc độ tăng trưởng bình quân 5,7%/năm trong giai đoạn 2021-2028. Do xu hướng thiết kế nội thất bền vững trong các tòa nhà trung tính đối với môi trường, ứng dụng nội thất tre sẽ đạt tốc độ tăng trưởng cao và Châu Á-Thái Bình Dương sẽ nổi lên giữ vai trò chủ đạo trên thị trường với tỷ trọng theo doanh thu trên 75%. Trong xu thế phát triển bền vững, tương lai tre Việt khá lớn nhưng vùng nguyên liệu vẫn chưa tập trung. Để gia tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, chất lượng của Tre Việt cần được nâng cao, đây là những thách thức không nhỏ.

Theo các nhà phân tích, không nên để cạnh tranh giữa các sản phẩm cùng loại mà phải phát triển các sản phẩm mới với thiết kế độc đáo hoặc có công dụng mới và tập trung vào sản phẩm mà Trung Quốc không sản xuất được. Theo đó, phải xây dựng kế hoạch tiếp thị vững chắc cho cả thị trường trong và ngoài nước, hợp tác với các tổ chức và công ty để thực hiện các dự án phát triển ngành Tre Việt Nam.

Từ thực trạng diễn ra, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT cho rằng, các doanh nghiệp, chính quyền địa phương và Bộ NN&PTNT phải xây dựng được những vùng nguyên liệu đủ lớn, đáp ứng được yêu cầu sản xuất, chế biến, và xuất khẩu. Ông nhấn mạnh “Để hình thành chuỗi giá trị cần kêu gọi doanh nghiệp đầu tư, phải xác định được vùng nguyên liệu và sự liên kết. Đây là những vấn đề mà doanh nghiệp, người sản xuất và chính quyền các địa phương phải cùng vào cuộc mới phát huy được giá trị cây tre”.

Đến nay, nhiều vùng có thế mạnh, nhưng chưa xác định  được vai trò, vị trí đích thực của cây tre. Sự gắn kết giữa doanh nghiệp với người trồng và doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu và tiêu thụ còn rời rạc, đặc biệt là xây dựng các vùng nguyên liệu lớn phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu.

Cùng với xây dựng vùng nguyên liệu tập trung, Bộ NN&PTNT đang đề xuất thành lập Hiệp hội Tre luồng Việt Nam. Đây sẽ là tiền đề và là cơ sở đầu tiên nhằm gắn kết ngành tre Việt trong giai đoạn mới.

Từ định hướng Bảo tồn giá trị văn hoá của cây tre Việt và phát huy các giá trị kinh tế của những sản phẩm, nhằm đa dạng hoá và sử dụng tre làm vật liệu thay thế gỗ và các hợp chất hoá học Bộ NN&PTNT đã chủ trương xây dựng các vùng nguyên liệu tâp trung được cấp chứng chỉ hướng tới xuất khẩu.

Cục kinh tế hợp tác và Phát triển Nông thôn VIệt Nam đã xác định định hướng phát triển của ngành đồng thời vạch ra một số giải pháp chủ yếu trong tổ chức sản xuất, thị trường tiêu thụ và cơ chế chính sách cần làm. Theo đó Cục đã nhấn mạnh:

Về tổ chức sản xuất phải nghiên cứu cải tạo giống tre và vận dụng phương pháp trồng chế biến mới vào sản xuất; thành lập các hợp tác xã và tổ hợp tác trồng tre. Trên cơ sở này, xây dựng những chuỗi liên kết giữa người dân, HTX với các doanh nghiệp trồng, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Theo đó, cần xây dựng quy hoạch vùng sản xuất nguyên liệu tập trung; đầu tư vào xây dựng hạ tâng phục vụ sản xuất như điện, đường… tạo liên kết vùng nguyên liệu với các làng nghề mây tre đan và các thị trường tiêu thụ.

Đối với thị trường tiêu thụ cần đa dạng hoá sản phẩm thông qua thiết kế mẫu mã theo thị hiếu của khách hàng; tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường, tổ chức tiếp thị và quảng bá sản phẩm tre nhất là những sản phẩm có khả năng thay thế gỗ và những vật liệu khác

Về cơ chế chính sách, đây là những đòn bẩy quan trọng để phát triển ngành, viêc xây dựng và hoàn thiện chính sách cần được quan tâm nghiên cứu và làm dứt diểm trong chủ trương hỗ trợ về đất đai, tín dụng, khoa học công nghệ và thị trường. Ngoài ra, rất cần quan tâm xây dựng chính sách liên kết gữa người dân.HTX và tổ hợp tác với doanh nghiệp.

Thay lời kết luận

Trong thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh ở Việt Nam, Nghị định 08/2022/NĐ-CP của Chính phủ quy định cấm nhập khẩu và sản xuất vật liệu nhựa dùng một lần bắt đầu từ năm 2026. Sự sẵn có của những sản phẩm làm từ vật liệu tre có thể là sự lựa chọn thay thế hữu ích cho sản phẩm nhựa dùng một lần. Từ đây, vật phẩm làm từ tre có nhiều triển vọng tương lai, nó sẽ nâng tầm cây tre trong đời sống xã hội. Với nhiều khía cạnh khác nhau, hy vọng chuỗi giá trị sản phẩm tre Việt sẽ mở ra rộng lớn để ngành kinh tế tre ngày càng phát triển đi lên./.