Chuyện bữa ăn của Bác Hồ

Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ thiên tài của cách mạng Việt Nam. Người đã được UNESCO vinh danh là “Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hoá kiệt xuuất của Việt Nam”, nhưng Bác lại sống một cuộc đời vô cùng giản dị, khiêm tốn từ trang phục cho đến bữa ăn.

Bởi thế, mỗi người dân Việt Nam khi nhắc đến Bác Hồ kính yêu không ai không khâm phục đức tính giản dị của Người. Đức tính giản dị của Bác luôn là tấm gương sáng để cho mỗi chúng ta học tập và noi theo.

Sự giản dị của Bác Hồ trước hết thể hiện ở đời sống sinh hoạt không chỉ trong những năm tháng hoạt động cách mạng bí mật gặp vô vàn khó khăn, mà ngay khi là vị Chủ tịch nước. Một nhà báo nước ngoài đã viết:” Cuộc sống giản dị cúa Chủ tịch Hồ Chí Minh và sự gần gũi với nhân dân là đặc trưng cho tình yêu đất nước của một con người đã trở thành huyền thoại ngay cả trong cuộc sống đời thường của mình. Một trong những yếu tố làm nên huyền thoại ấy, bắt đầu từ điều vô cùng đơn giản của những người bình thường nhất, đó là bữa ăn của Người, từ khi là một chiến sỹ hoạt động cách mạng dành độc lập thống nhất đất nước cho đến khi trở thành vị Chủ tịch nước Việt Nam”.

Theo bà Công Thị Thu (nay 92 tuổi), con của một gia đình có công với cách mạng, người làng Phú Gia, Hà Nội, cho biết: Vào một buổi tối ngày 23 tháng 8 năm 1945, ông Khánh ( tức Hoàng Tùng, Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân Cách mạng), chạy đến nhà thông báo: “chuẩn bị đón thượng khách từ chiến khu Việt Bắc về”. Khi trời về khuya, ông Khánh dẫn một đoàn cán bộ khoảng 12 người đến, trong đó có một cụ già râu dài, đôi mắt sáng, người gầy, nước da xanh xao. Cụ nói gọng miền Trung ấm áp.

bua-com-bac-ho-o-chien-khu-viet-bac-1683903259.jpg
Bữa cơm Bác Hồ ở Chiến khu Việt Bắc

Ông Khánh nói nhỏ với mẹ con bà Thu rằng: đoàn đã ăn tạm cơm nắm muối vừng ở Phú Xá từ hồi chiều. Gia đình ta nấu thêm nồi cháo cho đoàn ăn tối. Cháo nấu xong, mời cả đoàn cùng ăn. Cụ già “thượng cấp” khen cháo ngon và cảm ơn gia đình về sự chu đáo.

Mấy ngày sống cùng gia đình, mẹ bà Thu biết cụ già “thượng cấp” thèm rau, nên bà tìm cách thay đổi từng bữa ăn: lúc thì nấu canh khoai sọ, hôm canh đỗ, rau muống luộc chấm tương...

Sáng ngày 2/9/1945, khi “cụ già râu dài” đứng trên lễ đài Ba Đình đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, dân làng mới biết cụ già “thượng khách” chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Một năm sau, ngày 24/11/1946, một đoàn cán bộ trong đó có Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm gia đình bà Thu. Bác vẫn bận bộ đồ ka ki mầu trắng, tươi cười bước vào nhà, bắt tay ông nội bà Thu (lúc này hơn 80 tuổi) và dẫn vào cùng ngồi ở trường kỷ  nói chuyện.

Đến trưa, gia đình bà Thu chuẩn bị mâm cơm mời Bác và đoàn. Mâm cơm gồm nhiều thứ: thịt gà, giò, chả, thịt lợn kho, cá rim, rau muống luộc, canh khoai sọ...

Bác Hồ thấy mâm cơm quá thịnh soạn, liền gọi hỏi, có ý trách vị cán bộ đi theo: vì sao để gia đình làm cơm nhiều món như vậy? Dân ta còn nghèo. Đảng, Chính phủ đang kêu gọi tiết kiệm thực hiện “hũ gạo” chống giặc đói.

Mẹ bà Thu biết ý, đỡ lời: Thưa Hồ Chủ tịch, làng Phú Gia theo tục lệ “đất lề quê thói”, khi có khách đến nhà, gia chủ có bữa cơm mời là phải tươm tất ạ! Thức ăn chủ yếu là “cây nhà lá vườn” có sẵn, chỉ có giò, chả là phải mua ở chợ.

Bác cảm ơn gia đình và cùng mọi người dùng bữa

Sau ngày Quốc khánh 2/9/1945, Bác làm việc tại Bắc Bộ phủ, trong căn phòng nhỏ trên gác 2. Bác được cấp sinh hoạt phí mỗi tháng 200 đ. Đến giờ ăn. Bác cuốc bộ đến ăn cùng anh em trong cơ quan tại bếp ăn tập thể. Cũng như mọi người, bữa ăn của Bác đạm bạc, thường có một khúc cá nhỏ, một bát canh rau, vài quả cà muối, mấy cọng dưa, dăm ba lát ớt và lưng bát cơm.

bua-com-o-chan-deo-re-10-1948-bac-ho-tbt-truong-chinh-dt-vo-nguyen-giap-le-duc-tho-truoc-ngay-cu-vao-nam-1683903259.jpg
Bữa cơm ở chân đèo Re (10 -1948) 

Ngày 10/4/1946, Bác về Thái Bình để dàn xếp, giải quyết êm thấm vấn đề đoàn kết tôn giáo. Khoảng 8 giờ, xe Bác đến thị xã, nhân dân ùa đến vẫy cờ hoa, hô vang khẩu hiệu chào đón Bác. Lãnh đạo Uỷ ban khẩn khoản mời Bác nghỉ lại cho đỡ mệt và dùng bữa tối. Bác nói:

-       Hàng ngàn đồng bào chờ Bác ngoài kia. Bác không thể nghỉ ở đây để ăn cơm, vì 21 giờ Bác có việc ở Chủ tịch phủ. Bây giờ các chú giúp Bác một việc: Một chú ra tập hợp đồng bào ở một ngã tư rộng gần đây, để Bác nói chuyện với bà con mươi phút. Một chú ra cửa hàng mua cho Bác một cắp bánh giò. Còn các chú đi với Bác tranh thủ ăn cơm trước. Nói chuyện xong, Bác lên xe về Hà Nội ngay cho kịp hẹn. Trên đường về, ngồi trong xe Bác ăn bánh, đỡ tốn kém, vừa tiết kiệm thời gian.

Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Bác cùng các cơ quan Trung ương và Chính phủ sơ tán lên chiến khu Việt Bắc. Những năm đầu kháng chiến, đời sống vô cùng khó khăn. Bác vẫn ăn chung với các chiến sỹ và cán bộ sống cùng, không hề phân biệt. Bữa cơm lúc này chủ yếu là măng rừng, rau rừng, cao cấp nhất là món thịt chim, sóc bắt được do săn bắn hoặc đặt bẩy, đem kho mặn để Bác ăn dần. Thì thoảng kiếm được con gà bồi dưỡng riêng cho Bác, thì Người nói:

-       Lộc bất tận hưởng. Rồi đem chia đều cho mọi người.

Món ăn chủ yếu của Bác và anh em là món “thịt Việt Minh” gồm 1 kg thịt + 1 kg muối + ½ kg ớt, được xào lên cho vào ống bương, mỗi khi đi công tác mang theo dùng rất tiện.

Khi cuộc sống kháng chiến ở chiến khu đã đi vào ổn định, ngoài giờ làm việc, anh em bắt đầu tăng gia sản xuất, trồng rau, chăn nuôi gà vịt, được nhiều. Anh em đề nghị và được Bác đồng ý bỏ món “thịt Việt Minh”.

Có một lần đoàn Bác đi công tác qua huyện Yên Sơn, theo kế hoạch sẽ ghé vào cơ sở để ăn trưa. Nhưng vừa đến nơi, thì máy bay địch quần thảo trên bầu trời. Bác bảo anh em đưa cơm ra bãi cỏ cạnh bìa rừng ngồi ăn an toàn hơn. Hai đồng chí bảo vệ vào xóm bưng ra mâm cơm và mượn thêm chiếc chiếu của gia đình trải ngồi ăn. Lúc đặt mâm cơm xuống. Bác thấy có đĩa thịt gà luộc, đĩa cá và hai bát canh. Bác tỏ ý không vui và nói:

-       Các chú không nên mượn chiếu của bà con, làm phiền dân.

Ngừng một lát Bác nói tiếp:

-       Trong lúc nhân dân dang thắt lưng buộc bụng, tất cả cho kháng chiến, mình ăn cơm thế này là ăn “cơm quan” đấy.

Nói rồi Bác chia đôi tất cả các món có trên mâm. Bác bảo anh em đem một phần đã chia đưa vào biếu gia đình nghèo trong xóm. Phần còn lại Bác cũng chia đôi. Chỉ ăn một nửa, còn một nửa gói cẩn thận, mang theo dành cho bữa sau.

Một lần khác, trên đường đi công tác, mấy Bác cháu được bố trí ăn cơm ở nhà cơ sở. Do tình hình lương thực khó khăn, nên nồi cơm phải độn thêm khoai, sắn hoặc ngô. Vì thương Bác tuổi già, lại bận nhiều công việc, nên gia đình nấu thêm nồi cơm gạo trắng và sắp một mâm riêng. Khi vào bữa, Bác bưng bát cơm trắng, gắp thêm mấy miếng thức ăn ngon để mời cụ cố đang ngồi sưởi ấm bên bếp lửa ở gian trong. Bác nói rành rọt:

-       Cơm này để dành cho người già nhất ăn.

Rồi Bác lấy bát xới cho mình lưng bát cơm độn khoai sắn cùng ăn với cả nhà.

Sống ở rùng Việt Bắc thiếu rau ăn nhưng có nhiều mít, Bác bảo với cô Mai (vợ bác sỹ Chánh, bảo vệ sức khoẻ của Bác) làm món “nhút mít” để ăn cho đỡ xót ruột. Chị Mai thú thực không biết làm. Bác bày cho cách làm nhút từ quả mít xanh. Trong các món mang hương vị quê nhà, Bác thích nhất là món cá bống kho gừng. Hôm nào đồng chí Cần, cấp dưỡng của Bác, làm món ăn đó, Người thường ăn hết, để món thịt kho lại.

Bác không chỉ chú ý đến cách nấu thức ănn gon, mà còn chú ý đến cả hình thức trình bày thức ăn, để bữa ăn tuy đơn sơ nhưng cảm thấy ăn ngon miệng. Một lần đi công tác, cả đoàn dừng chân bên bờ suối nấu ăn. Bác bảo anh em nấu cơm, Bác làm món trứng rán. Bác rán trứng rất thành thạo. Trứng Bác rán đã xong, nhưng cơm chưa chín. Trong lúc chờ cơm chín, Bác lấy que sắt, nung trên bếp than hồng, rồi đặt lên đĩa trứng rán, tạo thành hình quả trám, trông rất đẹp. Thấy anh em trầm trò khen, Bác bảo:

-       Khi có điều kiện làm cho ngon hơn, đẹp hơn, ta cứ làm phải không các chú?

Cuối năm 1953, quân dân miền Nam đánh thắng lớn trên các mặt trận: U Minh, Đồng Tháp Mười, Tây Nguyên... Bác quyết định mở tiệc khao quân với các món: thịt gà luộc (được chặt ra từng miếng đều nhau đủ phần số người trong cơ quan), canh cải xanh, rau muống xào tỏi, xôi nếp, cơm tẻ đều là sản phẩm do cơ quan tăng gia. Bữa tiệc xong, Bác bỗng nói, giọng Bác trầm xuống:

-       Hôm nay Bác cháu mình ngồi ở chiến khu Việt Bắc, ăn xôi với thịt gà, mừng chiến thắng, thì quân và dân miền Nam 9 năm rồi, kể từ ngày 23/9/1945, không lúc nào ngơi tay súng chiến đấu với quân thù, để bảo vệ nền độc lập Tổ quốc, biết bao chiến sỹ, đồng bào hy sinh anh dũng.

Mọi người đều lặng đi, khi thấy những giọt nước mắt Bác đang lăn trên đôi gò má gầy sạm.

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi với “chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu”, miền Bắc hoàn toàn giải phóng. Bác, Trung ương Đảng, Chính phủ về lại thủ đô. Bác ở tạm trong ngôi nhà của người thợ điện (thời Pháp thuộc), gọi là nhà 54. Bác là Chủ tịch nước, nhưng bữa ăn hàng ngày của Người vẫn đạm bạc, bình dị, không cầu kỳ, không cao lương mỹ vị. Mọi sinh hoạt ăn uống của Bác rất đúng giờ: 7 giờ, bữa điểm tâm sáng của Bác thường là xôi với ruốc thịt hay bánh cuốn, hoặc bánh mì. Đến khoảng 9 giờ Bác uống một ly cà phê. 11 giờ ăn cơm trưa. Mâm cơm của Người thường có một bát canh, một món xào hoặc thịt lợn luộc, một vài quả cà muối, hay cá bống kho gừng. Đặc biệt không thể thiếu hương vị quê hương Xứ Nghệ “cá kho tương”. Mỗi bữa Bác chỉ ăn hai lưng bát cơm. Ăn xong Bác tự tay xếp bát đĩa gọn gàng, để giảm nhẹ công việc cho người phục vụ. Khoảng 14 giờ, Bác uống một ly sữa. 17 giờ 30, Bác dùng cơm tối. Đến 21 giờ Bác uống một cốc cà phê sữa cho tỉnh táo để làm việc khuya.

Có một lần vào bữa ăn trưa, đồng chí phục vụ đưa lên một đĩa cá anh vũ, một loại cá quý, chỉ có ở khúc sông ngã ba Bạch Hạc, Việt Trì, Phú Thọ. Bác bảo:

-       Cá ngon quá, thế mà chú Tô (Thủ tướng Phạm Văn Đồng) lại di vắng. Thôi! Các chú để đến chiều chú Tô về cùng thưởng thức.

Thấy Bác khen, anh em địa phương gửi tiếp cá anh vũ về biếu Bác. Nhưng khi thấy món cá hôm trước lại xuất hiện trong bữa ăn. Bác không bằng lòng, Người nói:

-       Bác có phải là vua chúa đâu, mà phải cung với tiến.

Bác kiên quyết bắt mang đi, nhất định không ăn.

Năm 1957, thay mặt nhân dân Việt Nam, Bác đi thăm một số nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu để cảm ơn các nước anh em đã giúp đỡ Việt Nam trong công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược thắng lợi. Sau bữa tiệc do Đại sứ quán Việt Nam tại một nước bạn. Ttiệc chiêu đãi Bác, khá tiết kiệm, nhưng trang trọng. Các món ăn không thừa, không thiếu. Người nói:

-       Ăn uống lãng phí, Bác xót lắm. Vì đây là tiền bạc của nhà nước, của nhân dân.

Bà con ta ở trong nước, làm đổ mồ hôi sôi nước mắt, mới có miếng mà ăn. Vì vậy, để lãng phí, xa hoa là có tội với nhân dân.

Ngày Bác đi thăm Liên Xô, theo lời mời của Bí thư thứ Nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, Xô Viết Tối cao và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô, bạn mở tiệc chiêu đãi toàn những thứ đặc sản, nhưng Bác lại chỉ nhớ món cá bống kho gừng. Không để bạn phật lòng, thư ký Vũ Kỳ trổ tài, bằng cách giới thiệu với bạn các món ăn cổ truyền Việt Nam, trong đó có món cá bống kho gừng. Nhờ thế trong bữa tiệc có món cá kho đó.

Từ tháng 5/1958, Bác chuyển sang ở nhà sàn, nhưng hàng ngày đúng giờ quy định, Người đi bộ đến nhà ăn bên kia hồ cá để dùng bữa. Cơm nước xong, Người lại cuốc bộ về nhà sàn. Gặp hôm mưa to gió lớn, hay nắng cháy da cháy thịt, Bác cũng tự đi.

Một hôm, trời mưa to, các đồng chí phục vụ thấy Bác xắn ống quần lội qua quảng đường ngập nước, thương Bác vô cùng. Hôm khác, sắp hết giờ làm việc, một cơn mưa to ập đến, gió thổi mạnh. Thấy cơ hội thuận lợi, đồng chí giúp việc xin phép được mang cơm sang nhà sàn Bác dùng bữa. Bác dừng tay làm việc, trầm ngâm nhìn trời mưa xối xả. Bác hỏi đồng chí phục vụ:

-       Thế mang cơm cho Bác, cần máy người?

-       Dạ thưa Bác, một đồng chí bê cơm, một đồng chí mang thức ăn và hai đồng chí đi kèm cầm ô che mưa, vị chi 4 người -  người phục vụ trả lời.

-       Vậy chú muốn một mình Bác vất vả, hay muốn 4 người vất vả chỉ vì một mình Bác – Bác hỏi.

Hết giờ làm việc, mưa vẫn tầm tả. Bác xắn cao ông quần, tay cầm ô, tay chống gậy, lần từng bước qua qua đoạn đường vòng ao nước chảy xiết. Bác đến nhà ăn an toàn.

Những lần đi công tác địa phương, Bác thường nhắc anh em, nhớ mang cơm theo. Khi thì cơm nắm muối vừng, khi thì bánh mì với thức ăn nguội. Còn món canh cho vào phích. Đến bữa Bác dùng vẫn nóng. Trên đường đi, đến bữa là Bác chọn nơi vắng, mát, sạch cho xe dừng. Cả đoàn bày cơm ra ăn, không làm phiền ai.

bua-com-bac-ho-voi-cac-chien-sy-tan-trao-1683903259.jpg
Bữa cơm Bác Hồ với các chiến sỹ Tân Trào

Trong lần đi thăm tỉnh Thái Bình, bị lụt nặng, Tỉnh uỷ và Uỷ ban, cố nài Bác ở lại ăn cơm. Bác nói:

-       Đi thăm tỉnh bị lụt, còn ăn uống nổi gì!

Nhưng vì thấy cán bộ trót bày mâm, Bác lấy gói cơm nắm và thức ăn mặn ra, rồi bảo đồng chí cảnh vệ:

-       Chú nói với đồng chí Bí thư và Chủ tịch đến ăn cơm với Bác, còn chú và bác sỹ sang mâm kia ăn với cán bộ tỉnh.

Trường hợp Bác đi công tác địa phương lâu ngày, Bác dặn cán bộ tỉnh, làm cơm cho bao nhiêu người cụ thể  và ăn những món gì. Dù cán bộ tỉnh bày cỗ ra, Bác  gắp vào bát anh em và bát của mình mỗi người chỉ một miếng, gọi là nếm thử, rồi xếp ngay ngắn đĩa thức ăn ấy lại và để ra khỏi mâm. Bác nói với anh em:

-       Người ta dọn một bữa sang, Bác cháu mình có khi chẳng ăn, hoặc không ăn hết. Nhưng đi rồi, để lại cái tiếng: Đấy Bác Hồ đến thăm cũng làm cơm thế này, thế nọ, cũng điều động người làm, mất thời gian. Mang tiếng bao che cho cái chuyện “xôi thịt”.

Hai lần Bác về thăm quê, tỉnh Nghệ An đều làm cơm chiêu đãi Bác. Lần thứ nhất năm 1957, Bác mời mọi người cùng ngồi chung mâm, có đĩa cà muối quê hương. Lần thứ hai năm 1961, Bác cũng ngồi vào bàn ăn, nhưng lại chiêu đãi mọi người món cơm đã chuẩn bị sẵn mang đi từ Hà Nội. Đó là những gói cơm nắm độn ngô. Bữa cơm ấy thật ngon, lạ miệng, mang nhiều ý nghĩa.

Năm 1965, cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc của giặc Mỹ, bước vào giai đoạn ác liệt, nhân dân ta bắt đầu phải ăn cơm độn sắn, mì, ngô..., vì thiếu gạo. Bác dặn anh em:

-       Các chú thổi cơm độn cho Bác. Nhân dân, cán bộ ăn độn bao nhiêu phần trăm độn cho Bác từng ấy.

Lúc này Bác đã bước sang tuổi 75, nhìn Bác ăn độn anh em xót lắm, liền thưa với Bác, Nhà nước đã có quyết định các cụ già trên 70 tuôi không phải ăn độn, nhưng Bác trả lời:

-       Bắc nhiều tuổi thật, nhưng Bác còn khoẻ, nên Bác theo cán bộ thế nào, Bác thế đó. Cứ thổi tiếp như cũ cho Bác ăn.

Anh em đành xay ngô thật mịn, độn là cho có, nhưng Bác biết, Người liền nhắc:

-       50% cơ mà!

Thủ tướng Phạm Văn Đồng, người được vinh dự dùng cơm với Bác. Thủ tướng kể lại: bữa ăn nào Bác cũng ăn tiết kiệm, vừa đủ, không để món thừa, không vương vãi một hột cơm. Bác rất thích ăn những món dân dã như vó bò, cà dầm tương, mắm, canh cua với rau chuối thái hoặc dọc mùng. Những hôm mời khách ăn cơm, bao giờ Bác cũng báo trước cho đồng chí cấp dưỡng biết để chuẩn bị và số tiền đãi khách đó được trừ vào tiền lương hàng tháng của Bác, không bao giờ Người dùng tiền công quỹ. Bác thường mời cơm thân mật một số đồng chí trong Bộ Chính trị, đôi khi cả gia đình một số đồng chí trong Trung ương, cán bộ, các anh hùng dũng sỹ miền Nam ra Bắc báo cáo công tác hoặc chữa bệnh. Những lần tiếp khách như vậy, bao giờ Người cũng nhắc các đồng chí phục vụ nấu những món ăn phù hợp khẩu vị của khách để anh em ngon miệng. Chiều 01/8/1969, vị khách cuối cùng đượcc Bác mời cơm là đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam ra báo cáo tình hình với Người.

Từ những chi tiết rất nhỏ trong cuộc sống của Người mà ta thấy được tình yêu thương con người là đức tính cần, kiệm, liêm, chính tạo nên nét thanh cao và sự vĩ đại của một bậc thánh nhân. Bởi vậy, đức tính giản dị của Bác là tấm gương sáng để cho chúng ta học tập và noi theo./.