Ngân hàng Thế giới (Ảnh Internet)
Khung Đối tác Quốc gia ở Việt Nam của Nhóm Ngân hàng Thế giới là tài liệu định hướng cho các hoạt động hợp tác của W.B từ 2018 đến 2022, đã tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên Phát triển bao trùm với sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân; Đầu tư vào con người và tri thức; Đảm bảo bền vững môi trường, nâng cao năng lực ứng phó và Thúc đẩy quản trị tốt hơn. Khung Đối tác giai đoạn 2023-2027 đang hình thành dựa trên Chiến lược Phát triển Kinh tế-Xã hội giai đoạn 2021-2030 của Chính phủ Việt Nam, tập trung vào các chủ đề được thảo luận ở cấp cao, nhằm hỗ trợ Việt Nam đạt được mục tiêu thu nhập trung bình cao trong năm 2030 và trở thành nước phát triển có có thu nhập cao vào năm 2045.
Cập nhật phát triển gần đây, Ngân hàng Thế giới đã chỉ ra, Tương lai của Việt Nam đang được định hình bởi những xu thế lớn. Đó là, dân số đang già đi nhanh chóng; thương mại toàn cầu suy giảm; suy thoái môi trường và biến đổi khí hậu (BĐKLH) ngày một gia tăng, trong bối cảnh Đại dịch COVID-19 đặt ra những thách thức chưa từng có.
Để vượt qua thách thức và đáp ứng mục tiêu phát triển, Việt Nam rất cần cải thiện kểt quả thực thi chính sách, đặc biệt trong các lĩnh vực tài chính, môi trường, chuyển đổi kỹ thuật số, xây dựng cơ sở hạ tầng; giảm nghèo và đảm bảo an sinh xã hội.
Trong bối cảnh toàn cầu,cbài viết đề câp đến triển vọng phát triển từ góc nhìn của Ngân hàng Thế giới
Tổng quan về phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam
Theo nhóm Ngân hàng Thế giới(W.B),Việt Nam là một câu chuyện phát triển thành công. Cải cách kinh tế từ năm 1986 đã giúp Việt Nam nhanh chóng phát triển từ một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới trở thành nước có thu nhập trung bình thấp trong vòng một thế hệ. Từ năm 2002 đến 2020, GDP đầu người đã tăng trên 3,6 lần, đạt gần 3.700 USD; Tỉ lệ nghèo theo chuẩn quốc tế giảm từ trên 14% của năm 2010 xuống còn 3,8% trong năm 2020 (chuẩn<3,65USD/ngươi/ngày, PPP 2017).
Nhờ nền tảng vững chắc, nền kinh tế đã thể hiện sức chống chịu đáng kể trong các giai đoạn khủng hoảng. Tăng trưởng GDP được dự báo ở mức 6,3% trong năm 2023, là tỷ lệ cao trong khu vực và sẽ lên 6,5% trong năm 2024. Mức tăng trưởng này còn được hỗ trợ bởi sự phục hồi nhanh chóng của các thị trường xuất khẩu là Mỹ, Khu vực Đồng tiền chung Châu Âu và Trung Quốc.
Với mức tăng trưởng từ 2,5% đến 3,5% hằng năm trong suốt 30 năm liên tục, ngành nông nghiệp đã hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng và đảm bảo an ninh lương thực. Năm 2020 đã đóng góp 14%vào tăng trưởng GDP và 38% về số việc làm; năm 2021, mặc dù đại dịch căng thẳng, song kim ngạch xuất khẩu nông sản vẫn đạt trên 48 tỷ USD.
Về Y tế-xã hội, đã đạt nhiều tiến bộ khi mức sống người dân được cải thiện. Tỉ suất tử vong ở trẻ sơ sinh giảm từ 32,6/1000 năm 1993 xuống còn 16,7/1000 trong năm 2020; Tuổi thọ trung bình gia tăng từ 70,5 (năm 1990) lên 75,45 vào năm 2020. Chỉ số bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân là 73%, cao hơn mức trung bình khu vực và trên thế giới; trong đó. 87% dân số đã có bảo hiểm y tế.
Theo Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, số năm đi học bình quân của người Việt Nam đạt 10,2, đứng thứ hai khu vực chỉ sau Singapore; chỉ số vốn con người đạt 0,69/1, xếp hạng cao nhất trong những nền kinh tế có thu nhập trung bình thấp. Khả năng tiếp cận hạ tầng cơ sở của người dân đã được cải thiện đáng kể, năm 2019, 99,4% dân số được sử dụng điện chiếu sáng, tỉ lệ này vào năm 1993 chỉ là 14%, Cùng với điện năng; tiếp cận nước sạch nông thôn cũng được cải thiện với tỷ lệ ngườ dân được thụ hưởng từ 17% năm 1993 tăng lên 51% vào năm 2020.
Việt Nam điểm sáng tăng trưởng (ảnh VNTTX)
Việt Nam đã đưa ra tầm nhìn phát triển, hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045. Để đạt được mục tiêu này, nền kinh tế cần tăng trưởng với tốc độ thu nhập bình quân đầu người tăng 5,9%/năm trong 25 năm tới. Việt Nam đang hướng tới mục tiêu phát triển xanh và bao trùm hơn, đồng thời cam kết giảm phát thải khí nhà kính xuống 30%, ngăn chặn nạn phá rừng trong năm 2030 và hướng tới đạt được mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Tương lai của Việt Nam được định hình bởi xu thế mới. Đó là, dân số già đi nhanh chóng, thương mại toàn cầu suy giảm trong bối cảnh suy thoái môi trường, BĐKH ngày một gia tăng. Ngoài ra, Đại dịch COVID-19 cũng đặt ra những thách thức chưa từng có có thể làm chậm tiến trình thực hiện các mục tiêu phát triển.
Theo Báo cáo Chẩn đoán Quốc gia mới nhất của W.B, muốn vượt qua thách thức Việt Nam cần đáp ứng mục tiêu phát triển và cải thiện hiệu quả thực thi chính sách, đặc biệt trong các lĩnh vực tài chính, môi trường, chuyển đổi kỹ thuật số, xây dựng cơ sở hạ tầng; giảm nghèo và đảm bảo an sinh xã hội.
Chiến lược hỗ trợ Viêt Nam của W.B
Khung Đối tác Quốc gia ở Việt Nam của W.B đã được chuẩn bị trên nền tảng của Báo cáo chẩn đoán Quốc gia; các báo cáo Quốc gia về khí hậu và phát triển, đánh giá thực trạng nghèo đói, bình đẳng xã hội và khả năng của kinh tế Tư nhân.
Cập nhật Báo cáo chẩn đoán Quốc gia 2021, đã phân tích cách thức mà các xu hướng phát triển toàn cầu, ở trong nước và những cú sốc COVID-19 để định hình lại các ưu tiên phát triển.
Báo cáo Quốc gia về khí hậu và phát triển, đã đề xuất lộ trình giúp Việt Nam đạt được tham vọng trở thành nền kinh tế có thu nhập cao vào năm 2045, đồng thời với giảm thiểu nguy cơ và tăng cường khả năng chống chịu với BĐKH. Báo cáo nhấn mạnh Việt Nam có thể đạt được các mục tiêu tăng trưởng trong bối cảnh BĐKH, tuy nhiên cần có những cải cách và đầu tư đáng kể.
Đánh giá thực trạng nghèo và bình đẳng - Từ chặng đường cuối đến chặng đường kế tiếp, đã đánh giá nỗ lực giảm nghèo trong 10 năm qua. Trong đó, nêu bật thách thức giảm nghèo của chặng đường cuối, đồng thời thảo luận những thách thức và cơ hội để đạt mục tiêu phát triển trong chặng đường kế tiếp.
Nghiên cứu đánh giá khu vực kinh tế tư nhân, đã xem xét cơ hội và thách thức trong tăng cường phát triển và tạo thuận lợi cho đầu tư. Báo cáo này đã đưa ra góc nhìn mới trong lĩnh vực liên quan đến các tập đoàn, vấn đề cụ thể của từng ngành và tác động của COVID-19 đối với doanh nghiệp.
Một số kết quả đat được trong hỗ trợ của W.B
Tính đến tháng 2 năm 2023, Ngân hàng Thế giới đã cung cấp một nguồn tài chính cho Việt Nam lên tới 25,16 tỷ USD, bao gồm các khoản viện trợ không hoàn lại, vốn tín dụng và vốn vay ưu đãi, thông qua 219 dự án. Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện 22 dự án IDA và IBRD, với tổng mức cam kết lên đến 4,33 tỷ USD. Ngoài ra, còn có một danh sách gồm nhiều hoạt động hỗ trợ phân tích và tư vấn với 17 nghiên cứu đang được triển khai, nhằm huy động sự hỗ trợ từ các đối tác và quỹ tín thác để thực hiện nhiều lĩnh vực cụ thể về phát triển năng lượng sạch, môi trường và các nguồn tài nguyên thiên nhiên; Quản lý nguồn nước, Phát triển đô thị và Quản lý rủi ro thiên tai; Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Vốn nhân lực, y tế và giảm nghèo. Dưới đây là những vấn đề cụ thể.
Về năng lượng sạch
Dự án Phát triển năng lượng tái tạo ở Việt Nam đã tập trung vào hỗ trợ khu vực tư nhân phát triển năng lượng tái tạo quy mô lớn, góp phần gia tăng tỉ trọng năng lượng tái tạo lên 10% trong tổng công suất phát điện. Dự án cũng đã cung cấp hỗ trợ kỹ thuật và vốn đầu tư để xây dựng năng lực và chính sách khuyến khích cho tất cả các bên liên quan, tạo tiền đề cho phát triển năng lượng tái tạo quy mô lớn.
Ngoài ra, 19 công trình thủy điện nhỏ đã được xây dựng với tổng công suất 320 MW, hàng năm cung cấp lượng điện đến 1.260GWh. Tất cả các công trình xây dựng đều tuân thủ thông lệ toàn cầu tốt nhất về xã hội và môi trường.
Về Môi trường và các nguồn Tài nguyên thiên nhiên
Dự án Chống chịu khí hậu tổng hợp và sinh kế bền vững ở Đồng bằng sông Cửu Long được khởi động từ năm 2016, đã hỗ trợ hơn một triệu nông dân chuyển đổi sinh kế thích ứng với khí hậu và tiết kiệm tài nguyên. Dự án tận dụng mạng lưới các nhà khoa học rộng khắp trong cả nước cùng với nông dân phát triển những mô hình sản xuất nhằm giải quyết thách thức về sinh thái nông nghiệp và kinh tế xã hội đặc thù. Đồng thời với nhân rộng các mô hình, dự án đã hỗ trợ xây dựng mạng lưới cơ sở hạ tầng, tăng cường hợp tác, điều phối vùng để quản lý nguồn tài nguyên đất và nước.
Với sự hỗ trợ của W.B, Việt Nam đã luật hóa việc thành lập thị trường carbon có hiệu lực từ tháng 1 năm 2022. Chương trình quan hệ đối tác xây dựng thị trường Carbon giai đoạn 2016-2021 đã góp phần đặt nền móng pháp lý và xây dựng năng lực để sử dụng công cụ này. Chương trình đã hỗ trợ quan chức Chính phủ trong đánh giá các lỗ hổng về thể chế, chính sách và kỹ thuật định giá carbon, đồng thời xây dựng quy trình định giá carbon bao gồm các bước thu thập dữ liệu, đo lường, báo cáo, xác minh và ghi nhận vệc đánh giá lỗi trong phát triển mô hình sản xuất, có thể giúp giải quyết những thách thức về sinh thái nông nghiệp và kinh tế xã hội đặc thù ở từng vùng, Chương trình cũng hỗ trợ xây dựng mạng lưới cơ sở hạ tầng đồng thời với tăng cường hợp tác, điều phối để quản lý các nguồn tài nguyên.
Trong quản lý nguồn nước
Dự án cải thiện nông nghiệp có tưới ở Việt Nam kết thúc vào năm 2021, đã góp phần hiện đại hóa cơ sở hạ tầng thủy lợi ở 6 tỉnh ở miền Trung và miền núi phía Bắc. Dự án đã hỗ trợ trên tổng diện tích 95.000 ha, giúp 252.000 hộ nông dân áp dụng các hình thức nông nghiệp dựa trên khí hậu. Cách làm này giúp nông dân giảm đầu vào sản xuất, tiết kiệm nước và tăng sản lượng trên một ha lên gần 6 lần mỗi vụ; ước tính các biện pháp canh tác hỗ trợ giảm được 4,3–4,4 tấn khí thải CO2/ ha/năm. Nhiều kinh nghiệm rút ra từ dự án đang được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn phát triển, nhân rộng.
Dự án sửa chữa và nâng cao an toàn đập. Khởi động từ năm 2016, dự án đã hỗ trợ thực hiện chương trình an toàn đập Quốc gia, giữ vai trò quan trọng trong đảm bảo an ninh nguồn nước và ngăn ngừa tình trạng vỡ đập ở các khu vực hạ lưu. Tính đến nay, dự án đã cải thiện tình trạng của 438 đập đa mục tiêu trong tổng số 477 đập được dự án hỗ trợ; bảo vệ khoảng 4,3 triệu người ở các cộng đồng thuộc hạ lưu của nhiều con sông. Công tác quản lý an toàn đập đã được hiện đại hóa với việc sử dụng công nghệ gắn với vị thế địa lý và hướng dẫn thủ tục theo hướng kiểm tra và đảm bảo an toàn.
Phát triển đô thị và quản lý rủi ro thiên tai
Dự án phục hồi khẩn cấp sau thiên tai đã hỗ trợ 4 tỉnh bị ảnh hưởng tai phục hồi cơ sở hạ tầng và tăng cường năng lực để ứng phó với các rủi ro tương lai. Dự án đã cải thiện khả năng tiếp cận hạ tầng giao thông, phòng chống ngập lụt, thủy lợi và thoát nước cho 1,3 triệu người. Dự án cũng giải quyết những lỗ hổng thể chế nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và xây dựng các kế hoạch quản lý rủi ro tổng hợp ở các lưu vực sông chính.
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Dự án Nước sạch và Vệ sinh Nông thôn được xây dựng dựa vào kết quả của Chương trình mục tiêu Quốc gia, giúp giải quyết một trong những thách thức lớn nhất ở nông thôn Việt Nam thông qua đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và cải thiện khung pháp lý để nâng cao tiếp cận dịch vụ cấp nước và vệ sinh bền vững. Từ năm 2013 đến 2019, hơn một triệu người đã được tiếp cận hệ thống nước bền vững; 1,4 triệu dân ở 203 xã đã được tiếp cận với các dịch vụ vệ sinh toàn xã.; 142.000 hộ gia đình và 1.500 trường học được lắp đặt hệ thống vệ sinh cải tiến. Chương trình đã tăng cường đáng kể cơ chế giám sát nước sạch và vệ sinh với quy trình đánh giá của các cơ quan thực hiện.
Dự án Chuyển đổi bền vững Nông nghiệp Việt Nam đã hỗ trợ một triệu nông dân ở Đồng bằng sông Mekong và vùng Tây Nguyên áp dụng thực hành nông nghiệp tốt (GAP). Những người hưởng lợi từ dự án đã cải thiện hiệu quả canh tác, tăng thu nhập, giảm ô nhiễm môi trường và phát thải KNK nhất là trong sản xuất lúa và cà phê. Kết thúc dự án, hơn 220.000 hộ nông dân đã áp dụng GAP trên 255.000 ha đất canh tác, lợi nhuận canh tác tăng hơn 20% và giảm trên 1,5 triệu tấn phát thải CO2.
Giáo dục đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Chương trình nâng cao năng lực giáo viên đã cải thiện chất lượng dạy và học thông qua triển khai các khóa đào tạo liên tục nhằm nâng cao năng lực chuyên môn cho hơn 530.000 giáo viên và hiệu trưởng các trường phổ thông. Dự án nâng cao chất lượng giáo dục học sinh khiếm thính đã hỗ trợ xây dựng tài liệu Việt ngữ ký hiệu, đã góp phần cải thiện đáng kể số lượng đăng ký và kết quả học tập của học sinh khiếm thính.
Thông qua các chương trình đầu tư cho các đại học và các hoạt động tư vấn, phân tích về phát triển kỹ năng W.B cũng đã tư vấn chiến lược để chuẩn bị lực lượng lao động cho những việc làm trong tương lai.
Dự án Nâng cao chất lượng giáo dục Đại học đã giúp nâng cao chất lượng nghiên cứu, giảng dạy và quản ở những đại học hàng đầu như Đại học Nông nghiệp và Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội. Tính đến tháng 11/2022, gần nửa triệu sinh viên của hai trường này và Đại học Kinh tế Quốc dân đã được hưởng lợi từ các hoạt động của dự án đồng thời với 18 chương trình đào tạo đã được cấp chứng nhận quốc tế.
Trong lĩnh vực Y tế,
W.B đồng hành cùng nỗ lực của Việt Nam nhằm đảm bảo mọi người dân đều được tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe chất lượng với chi phí hợp lý. Tại các tỉnh miền Bắc, 13,7 triệu người dân đã được tiếp cận tốt hơn với dịch vụ chăm sóc sức khỏe có chất lượng. Kể từ ca lây nhiễm COVID-19 đầu tiên vào năm 2020, Nhóm Ngân hàng Thế giới đã đồng hành cùng Việt Nam xây dựng chiến lược ứng phó quốc gia từ quản lý khủng hoảng y tế đến thúc đẩy phục hồi kinh tế bền vững. Khoản tài trợ từ Quỹ hỗ trợ khẩn cấp đã giúp tăng cường năng lực xét nghiệm cho 84 phòng thí nghiệm trên toàn quốc, giảm được thời gian xét nghiệm từ 24-48 giờ xuống còn 4-6 giờ. Dựa trên kinh nghiệm ở nhiều quốc gia, W.B đã đưa ra những chuyên đề tư vấn chính sách đa ngành, từ bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương đến thúc đẩy phục hồi trên diện rộng. .
Dự án hỗ trợ hệ thống y tế khu vực Đông Bắc và Đồng bằng sông Hồng đã nâng cao năng lực điều trị cho 74 bệnh viện công lập tuyến huyện và tỉnh thông qua đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng và đào tạo nâng cao tay nghề cho y, bác sĩ. Những can thiệp chính về tim mạch, sản/phụ khoa, nhi khoa, ung thư và chấn thương tại các bệnh viện địa phương giúp bệnh nhân không cần phải đi xa. Ngân hàng Thế giới cũng đã hỗ trợ Chính phủ trong cải thiện tình hình, từ đó đạt được hiệu quả tài chính bền vững.
Về giảm nghèo
Việt Nam có những bước tiến lớn về giảm nghèo và cải thiện chất lượng cuộc sống cho hàng triệu dân; W.B đã đồng hành trên những chặng đường cuối cùng về xóa nghèo; đến năm 2020, tỉ lệ người nghèo theo chuẩn,(<3,65 USD PPP 2017) ở Việt Nam còn 3,8%, là thành công to lớn của quốc gia có mức thu nhập trung bình thấp.
Thay cho lời kết
Hoạt động của WB tại Việt Nam luôn gắn với tiến trình phát triển, tạo hiệu ứng thiết thực đối với cải cách và phát triển kinh tế xã hội và xóa đói, giảm nghèo. Những tư vấn chính sách của WB được thực hiện trên cơ sở linh hoạt và phù hợp với bối cảnh phát triển qua từng thời kỳ, đã giúp Việt Nam duy trì được động lực cải cách nhằm tiếp tục đổi mới trong tình hình mới. Từng chương trình, dự án đầu tư do WB tài trợ đều có sự lồng ghép giữa đầu tư, chính sách và thể chế là những sáng kiến về ý tưởng, hành động phù hợp nhằm hỗ trợ cho quá trình phát triển, tạo cơ sở để áp dụng một cách hiệu quả.
Cùng điểm lại những kết quả hoạt động của W.B trong thời gian qua, bài viết hy vọng với vai trò là một trong những nhà tài trợ tiên phong trong thực hiện cam kết bằng cách tăng cường tài trợ thông qua các phương thức tiếp cận chương trình, dự án ở cấp ngành và cả quốc gia, W.B sẽ tiếp tuc cách tiếp cận này theo hướng tổng hợp và khung ngân sách phối hợp hài hoà thủ tục để hợp tác cùng Chính phủ trong cung cấp những hỗ trợ có mục tiêu, nhằm khuyến khích nâng cao hiệu quả và hiệu lực của nguồn vốn vay./.