Kỳ 16.
5. 3. Nhà Tiền Lê (979-1009).
Sau khi lên ngôi, Lê Hoàn xưng là Lê Đại Hành, quốc hiệu Đại Cồ Việt, kinh đô Hoa Lư. Nhà vua chăm lo phát triển kinh tế, phát triển nền chính trị của đất nước. Ở triều đình trung ương, Lê Đại Hành đặt ra chức Thái sư, Thái uý, Tổng quản, Đô chỉ huy sứ. Tổng quản trông coi hành chính, quân sự, Thái úy chỉ huy quân lữ, chia đất nước thành các đơn vị hành chính: Lộ, phủ, châu, xã. Năm 981 Lê Đại Hành đánh bại cuộc xâm lược quy mô to lớn gồm 20 vạn quân của nhà Tống vào Đại Cồ Việt do tướng Hầu Nhân Bảo chỉ huy. Năm 982 Lê Đại Hành đíchbthân tự cầm quân vào tận Đồng Dương (Quảng Nam) đánh Chiêm Thành, ổn định biên giới phía Nam. Lê Đại Hành xây dựng quân đội thường trực trung ương hùng mạnh. Trên trán mỗi binh sĩ có khắc chữ “Thiên tử quân”
Năm 1005 Lê Đại Hành mất, Lê Trung Tông lên ngôi được 3 ngày thì bị em là Lê Long Đỉnh giết chết cướp ngôi. Năm 1009 Lê Long Đỉnh (Lê Ngoạ Triều) mất. Sự tàn bạo của Lê Ngọa Triều làm cho lòng người chán ghét nhà Tiền Lê. Triều thần và giới Phật giáo tôn Điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn (quê ở Từ Sơn, Bắc Ninh) lên ngôi lập ra nhà Lý.
Nhà Tiền Lê do Lê Hoàn sáng lập tồn tại 29 năm, trải qua 3 đời vua: Lê Đại Hành (979-1005), Lê Trung Tông (1005), Lê Ngoạ Triều (1005-1009).
5. 4. Nhà Lý (1009-1225).
Sau khi lên ngôi, Lý Công Uẩn xưng là Lý Thái Tổ, dời kinh đô từ Hoa Lư về thành Đại La và đổi tên là Thăng Long. Năm 1054 đổi quốc hiệu Đại Cồ Việt thành Đại Việt. Nếu như các triều Ngô-Đinh-Tiền Lê đặt nền tảng thì nhà Lý bắt đầu xây dựng một quốc gia phong kiến tập quyền hùng mạnh trên cơ sở điền trang thái ấp. Vua nắm tất cả quyền lực nhà nước, xưng là Thiên Tử (con trời), thay mặt trời để cai trị nhân dân. Mệnh lệnh của nhà vua là lệnh của trời, chống lại vua là chống lại trời.
Ở trung ương, nhà Lý đặt ra phẩm cấp 9 tước vị, đặt ra chức Tể tướng (Phụ quốc thái uý) là chức quan cao nhất, chỉ đứng sau vua, đặt ra tam Thái: Thái sư, Thái bảo, Thái phó, đặt ra các Bộ thượng thư, tả hữu Tham tri, Bộ thị lang, tả hữu Lang trung, tả hữu Gián nghị đại phu, Điện học sĩ, Hàn lâm học sĩ. Ban võ đặt ra các chức Thái uý, Thiếu uý, Kiểm hiệu bình chương sự, Đô thống, Nguyên súy, Tổng quản. Nhà Lý xây dựng quân đội hùng mạnh nhiều cấp, nhiều thứ quân, thi hành chính sách “Ngụ binh nông” như những triều đại trước bảo đảm sản xuất và quốc phòng. Trên cơ sở sức mạnh quốc gia phát triển toàn diện, năm 1075-1076 –1077 nhà Lý lãnh đạo nhân dân đánh bại cuộc xâm lược quy mô to lớn của nhà Tống.
Nhà Lý chia toàn quốc thành các đơn vị hành chính lộ, phủ, huyện, hương, giáp , thôn. Nơi xa trung ương gọi là châu (Châu Hoan, Châu Ái ), miền núi gọi là trại.
5. 5. Nhà Trần (1225-1400).
Cuối thế kỷ XII đầu thế kỷ XIII chính quyền họ Lý bước vào thoái hóa, suy vong. Lý do chính là các đời vua con, vua cháu, quan con, quan cháu chỉ lo bóc lột nhân dân để ăn tiêu xa xỉ, không chăm lo phát triển kinh tế, đẩy nhân dân vào con đường đói khát đau thương. Nạn đói năm 1181 giết chết 1/2 dân số. Bất lực, vua Lý Huệ Tông bỏ đi tu ở chùa Chân Giáo, để lại ngai vàng cho con gái mới 7 tuổi là Lý Chiêu Hoàng. Toàn bộ quyền hành nằm trong tay dòng họ ngoại thích: Họ Trần mà người tiêu biểu là Trần Thủ Độ.
Năm 1225 do sự bố trí của Trần Thủ Độ, Lý Chiêu Hoàng kết duyên cùng Trần Cảnh, sau đó Nữ Hoàng nhường ngôi cho chồng. Nhà Lý đi vào lịch sử. Vương triều mới được thành lập: Vương triều Trần.
Vương triều Trần ra sức xây dựng Đại Việt thành một quốc gia phong kiến phát triển mọi mặt dựa trên cơ sở kinh tế điền trang thái ấp có từ thời Ngô -Đinh-Tiền Lê-Lý và ngày càng được mở rộng. Nhà Trần định đô ở Thăng Long, quốc hiệu Đại Việt. Nhà nước phong kiến chuyên chế tập quyền ngày càng hoàn bị rõ nét. Vua là người đứng đầu nhà nước, nắm tất cả các quyền lực cơ bản. Vua được thần thánh hóa là Thiên Tử. Trong triều đặt ra các chức Tam thái (Thái sư, Thái bảo, Thái phó) và Tam thiếu (Thiếu sư, Thiếu bảo, Thiếu phó), đặt ra chức Tam tư tướng quốc (Tư đồ, Tư mã, Tư không). Bên dưới có thêm tả hữu Tướng quốc để giúp việc. Nhà Trần tiến sâu hơn một bước trong việc cai trị theo chuyên ngành, đặt ra 6 bộ, mỗi bộ do một Thượng thư đứng đầu. Còn có tã hữu Bộc xạ, Gián nghị đại phu, Lang trung, Trung thư lang quân. Đặt chức Ngự sử đại phu để đàn hạch, giám sát các quan. Còn thêm Thị ngự sử, Giám sát ngự sử, Chủ thị ngự sử, Ngự sử trung tán, Ngự sử đại phu, Giám sát ngự sử , Tư đồ là Tể tướng, Tư mã phụ trách quốc phòng, tư pháp, Tư không coi sóc các công việc còn lại. Tam tư tướng quốc và Chức Đại hành khiển tham tri chính sự là những chức quan đứng đầu các quan.
Nhà Trần lập những cơ quan chuyên trách là các viện: Khu mật viện để tham nghị triều sự, Hàn lâm viện soạn chiếu thư, Quốc sử viện biên soạn lịch sử, Quốc tử giám trông coi giáo dục, Thái y viện trông coi việc chữa bệnh, lo y dược trong cung. Bên ngoài triều có các chức quan An phủ, Trấn phủ, Tri phủ, Thông phán, Kiểm phán, Tào vận lệnh, Hà đê chánh sứ, Hà đê phó sứ, Đồn điền chánh phó sứ.
Về quân sự có chức Phiêu kỵ thượng tướng quân (chỉ phong cho hoàng tử), Kim ngô vệ đại tướng quân, Vũ vệ đại tướng quân, Thân vệ tướng quân, Đô thống chế, Kinh lược sứ, Phòng ngự sử, Quan sát sứ, Thủ ngự sử, Đô hộ thống, Tổng quản.
Nhà Trần chia nước thành 12 lộ (thời Lý 24 lộ), dưới lộ là châu, huyện, xã. Quan lại nhà Trần được cấp lương bổng. Quân đội bao gồm 3 thứ quân: Quân cấm vệ của triều đình, Quân các lộ (địa phương) và quân của các vương hầu. Nhà Trần lập ra Giảng võ đường để huấn luyện quân đội. Chính sách “Ngụ binh nông” ở các triều đại trước vẫn được duy trì để bảo đảm sản xuất và quốc phòng.
Các vua Trần sớm nhường ngôi cho Thái tử, lui về làm Thái Thượng Hoàng để rèn dạy cho vua trẻ, ngăn chặn việc cướp ngôi. Nhà Trần ban hành bộ luật “Hình thư”, Quốc triều thông chế gồm 20 quyển quy định về tổ chức chính quyền và quy chế hành chính. Các hoàng tử, thân vương nắm các chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà nước phải là những người có tài năng. Không có tài năng chỉ được cấp điền trang thái ấp hưởng về kinh tế bổng lộc. Để phục vụ cho sự thống trị, nhà Trần đưa Nho lên địa vị chủ yếu thay thế cho Phật giáo. Nho chiếm ưu thế. Nho sĩ được trọng dụng trong bộ máy nhà nước. Nhà Trần chăm lo phát triển kinh tế, quan tâm đến đời sống của nông dân. Chính trị, kinh tế, văn hoá phát triển đã tạo nên sức mạnh to lớn để dân tộc ta lập nên võ công hiển hách thế kỷ XIII, đánh bại ba lần xâm lược của đế quốc Nguyên -Mông, một đế quốc hung bạo và to lớn nhất đương thời.
Vào cuối thế kỷ XIII, vương triều Trần đã hết sức sống và bước vào cuộc khủng hoảng. Nguyên nhân khủng hoảng cũng giống như Vương triều Lý. Các vua con, vua cháu, quan con, quan cháu sau một thời gian đất nước hòa bình liền lao vào con đường ăn chơi sa đọa, ra sức cướp đoạt ruộng đất của nông dân, bóc lột họ một cách tàn khốc, không chăm lo phát trển kinh tế dẫn đến mất mùa đói khát. Nông dân bị đẩy đến bước đường cùng liên tục nổi dậy chống lại triều đình. Phía Nam, vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga nhiều lần tấn công Đại Việt, có lần uy hiếp cả kinh thành Thăng Long. Lại thêm nhà Trần nhiều lần gây xung đột với Ai Lao. Tất cả làm cho nền thống trị nhà Trần lung lay tận gốc, đứng bên miệng hố diệt vong. Quyền lực nhà nước tập trung vào tay Hồ Quý Ly. Năm 1397 Hồ Quý Ly buộc vua Trần Thuận Tông dời về thành An Tôn (Vĩnh Lộc, Thanh Hóa). Ngày 28 tháng 2 năm 1400 Hồ Quý Ly phế bỏ nhà Trần, lập ra Vương triều mới: Triều Hồ.
5. 6. Nhà Hồ (1400-1407).
Hồ Quý Ly lên ngôi dời đô về Tây Đô (Thanh Hóa), đổi quốc hiệu Đại Việt thành Đại Ngu, Thăng Long được gọi là Đông Đô. Hồ Quý Ly đã tiến hành một loạt cải cách chính trị, kinh tế, văn hoá , quân sự mong cứu vãn sự khủng hoảng của chế độ đại điền trang thái ấp. Hồ Quý Ly thi hành chính sách hạn điền, hạn nô nhằm hạn chế việc cướp đoạt ruộng đất của quý tộc đối với nông dân, hạn chế việc biến nông dân thành nô tì. Nhà nước phát hành tiền giấy thay cho tiền đồng, chấn chỉnh việc học hành thi cử, dùng chữ Nôm thay cho chữ Hán. Cải cách của Hồ Quý Ly là mạnh dạn, tích cực nhưng không đáp ứng được mong muốn của nhân dân. Cải cách chỉ đem lại quyền lợi cho họ Hồ. Tiền giấy ra đời không do nhu cầu phát triển kinh tế mà chỉ nhằm tăng ngân quỹ cho nhà nước, thu đồng về đúc súng đạn, ruộng đất nô tì cuối cùng lại lọt vào tay họ Hồ. Về quân sự, nhà Hồ chỉ chăm lo xây dựng thành quách, quân số quân đội đông đúc mà không chú ý dựa vào nhân dân để bảo vệ tổ quốc. Nhân dân không được lợi ích gì trong cải cách của Hồ Quý Ly. Cải cách bị quý tộc nhà Trần chống lại vì đụng chạm đến quyền lợi cố hữu của chúng. Cải cách của Hồ Quý Ly thất bại và nhà Hồ bị cô lập giữa các thế lực giai tầng trong xã hội.
Trước khi nhà Hồ nắm quyền 32 năm, năm 1368 ở Trung Quốc đã thay đổi triều đại: Chu Nguyên Chương, một lãnh tụ kiệt xuất của phong trào nông dân đã lật đổ nhà Nguyên, lập ra nhà Minh. Nhà Minh thực hiện mưu đồ xâm lược nước ta, huy động 20 vạn quân tinh nhuệ, 60 vạn dân phu phục vụ với những tướng lĩnh dày dạn kinh nghiệm chiến đấu do Trương Phụ làm chủ soái. Ngày 19 tháng 11 năm 1406 quân Minh tràn vào nước ta. Ngày 20 tháng 1 năm 1407, thành Đa Bang dài 700 dăm (350km) ở bờ Bắc sông Cầu mà nhà Hồ dày công xây dựng bị quân Minh phá vỡ. Ngày 22 tháng 1 năm 1407 giặc chiếm Thăng Long. Quân đội nhà Hồ thua to phải rút về Thanh Hoá. Trong một trận đánh quyết định trên bờ sông Liễu Giang (Kim Sơn, Vĩnh Lộc, Thanh Hoá) để bảo vệ Tây Đô, quân ta đại bại và tan vỡ. Triều đình rút chạy về phía Nam nhưng bị giặc bắt ở Thiên Cầm (Hà Tĩnh), trong đó có Thái Thượng Hoàng Hồ Quý Ly, vua Hồ Hán Thương, Tướng quốc Hồ Nguyên Trừng, các đại thần trong đó có cha con Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi, Nguyễn phi Hùng.
Nhà Hồ do Hồ Quý Ly sáng lập tồn tại được bảy năm qua 2 đời vua; Hồ Quý Ly (1400) và Hồ Hán Thương (1401-1407).
Nguyên nhân thất bại của nhà Hồ nằm trong sự khủng hoảng tạm thời của chế độ phong kiến Việt Nam ở chính sách cải cách thất bại không được lòng dân. Khi chiến tranh bùng nổ, nhà Hồ không phát động được cuộc chiến tranh nhân dân, không rút lui chiến lược để bảo toàn lực lượng, thực hiện kháng chiến lâu dài để chuyển biến đối sánh lực lượng có lợi cho ta, sau đó phản công chiến lược tiêu diệt địch, đè bẹp ý chí xâm lược của chúng, kết thúc chiến tranh thắng lợi. Nhà Hồ ngay từ đầu đã đưa toàn bộ quân đội lên chống giặc, tạo cho quân Minh phát huy được thế mạnh ban đầu của chúng, phá tan phòng tuyến, tiêu diệt chủ lực ta, bắt sống triều đình, nhanh chóng kết thúc chiến tranh xâm lược.
Thất bại của triều Hồ đẩy dân tộc ta vào thảm hoạ. Sau gần 500 năm độc lập, nước ta lại bị biến thành quận huyện của Trung Quốc. Tháng 4 năm 1407 nhà Minh đổi Đại Ngu thành quận Giao Chỉ, thiết lập bộ máy cai trị phong kiến quân sự hà khắc. Trên cơ sở bộ máy bạo lực to lớn hung bạo, giặc Minh đàn áp, bóc lột, đồng Hóa nhân dân ta một cách tàn bạo. Chúng cấm nhân dân ta không được tích luỹ, sản xuất vũ khí, mở các cuộc càn quét khủng bố giết chóc dã man bằng cách mổ bụng, thiêu sống, rán thịt người lấy mỡ. Chúng cướp bóc, vơ vét của cải, đánh nhiều thứ thuế vào mọi hạng người và vào mọi nghề nghiệp. Thuế ruộng tăng gấp 3 lần so với thời Hồ. Chúng nắm độc quyền mua bán muối, sắt để chi phối đời sống nhân dân ta. Phu phen tạp dịch nặng nề. Dân đinh từ 16 đến 60 tuổi phải đi lao dịch, cứ 2 suất đinh chúng bắt một suất lính. Thâm độc và bao trùm nhất là chính sách đồng hóa văn hóa dân tộc. Giặc Minh ra sức cướp và thủ tiêu tất cả sách vở, bia đá, di cảo của dân tộc ta. Chúng buộc nhân dân ta phải theo phong tục tập quán Trung Quốc như ăn mặc, trang sức. Chính sách áp bức bóc lột đồng hoá của nhà Minh đã đẩy dân tộc ta vào cuộc thử thách hiểm nghèo, đứng trước sự diệt vong.
Nhưng với truyền thống kiên cường quật khởi bất khuất, ý chí độc lập mạnh mẽ, nhân dân ta không khuất phục, đã liên tục đứng dậy đấu tranh giải phóng dân tộc. Khởi nghĩa Trần Ngỗi (1407-1409), khởi nghĩa Trần Quí Khoáng(1409-1413) ở Thanh Hóa, khởi nghĩa của nhà sư Phạm Ngọc (1419-1420) ở Hải Phòng, Lê Ngã (1419-1420) ở Quảng Ninh lan ra khắp miền Đông Bắc.
Những cuộc khởi nghĩa đó bị đàn áp thất bại nhưng đã giáng những đòn mạnh mẽ vào nền thống trị của quân Minh, tạo tiền đề cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo bùng nổ năm 1418 và thắng lợi năm 1427, khôi phục lại nền độc lập đất nước và lập ra nhà Hậu Lê (1428-1789).
5. 7. Nhà Hậu Lê (1428-1789).
Do Lê Lợi (quê ở Lam Sơn, Thọ Xuân, Thanh Hóa ) sáng lập sau kết quả cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi. Năm 1428 Lê Lợi lên ngôi vua xưng là Lê Thái Tổ, quốc hiệu Đại Việt, định đô ở Thăng Long. Nhà Hậu Lê dựa trên nền kinh tế địa chủ tá điền và cơ sở xã hội là giai cấp địa chủ phong kiến mới: Quý tộc và địa chủ. Bản thân Lê Lợi cũng xuất thân từ một địa chủ ở Lam Sơn. Chế độ tư hữu ruộng đất phát triển mạnh mẽ, kinh tế điền trang thái ấp hoàn toàn tan rã. Hình thức kinh tế mới, tầng lớp địa chủ mới đã mang lại một sức sống mới, khắc phục được tình trạng khủng hoảng tạm thời của chế độ phong kiến khi kinh tế điền trang thái ấp tan rã. Nhà Hậu Lê ra sức xây dựng một chế độ phong kiến tập quyền chuyên chế cao độ, hoàn bị về mọi mặt. Các vị vua thời Hậu Lê là người có quyền vô thượng và tuyệt đối. Dưới vua, trong triều đình quan lại đặt dưới sự điều hành của nhà vua. Vua là Thiên tử (con trời). Vua không chỉ cai trị thần dân mà còn thưởng phạt cả thần thánh. Dưới triều Hậu Lê, xu hướng chuyên chế độc đoán ngày càng phát triển. Nho giáo trở thành tư tưởng chính thống của nhà nước và giữ địa vị chủ yếu, chi phối mạnh mẽ đời sống xã hội tinh thần.
Tất cả những chính sách của nhà Hậu Lê, đặc biệt dưới thời Lê Sơ (1428-1527) đã đưa chế độ phong kiến phát triển toàn diện và cực thịnh vào thế kỷ XV, Đại Việt trở thành quốc gia hùng cường ở Đông Nam Á. Nhà Lê kiên quyết bảo vệ lãnh thổ, chủ quyền quốc gia dân tộc. Vào thế kỷ XVI, giai cấp phong kiến Việt Nam hết vai trò tiến bộ, ra sức bóc lột nông dân, ăn chơi phè phỡn và lao vào cuộc đấu tranh tranh giành quyền lực, dẫn tới xung đột, nội chiến giữa các tập đoàn phong kiến triền miên, liên tục, gây tổn hại, chết chóc, đau thương khổ cực vô cùng tận cho nhân dân, phá hoại sự thống nhất đất nước.
(Còn nữa)
CVL