Cách đây hơn 60 năm, ngày 23-7-1959, Bác Hồ đã đến tham quan khu công nghiệp khai thác dầu ở Bacu thuộc nước Cộng hòa Azerbaijan (Liên Xô cũ). Tại đây, khi trao đổi với các nhà lãnh đạo và các kỹ sư dầu khí, Bác nói: “Tôi nghĩ Việt Nam chúng tôi có biển, nhất định sẽ có dầu, nhưng đang chiến tranh, chưa làm được, tôi hy vọng và tin rằng sau khi Việt Nam kháng chiến thắng lợi, các đồng chí sẽ giúp chúng tôi tìm ra dầu, rồi giúp khai thác và chế biến dầu, xây dựng được khu công nghiệp dầu khí như Bacu ngày nay”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh với tầm nhìn chiến lược của một thiên tài đã tiên định và đặt nền móng cho nền công nghiệp dầu khí Việt Nam gần 30 năm trước khi chúng ta bắt đầu khai thác công nghiệp những tấn dầu thô đầu tiên từ lòng đất Việt Nam.
Ý nguyện, tầm nhìn chiến lược của Bác Hồ đã trở thành khát vọng, niềm tin và mục tiêu phấn đấu của bao thế hệ những “người đi tìm lửa”, là “kim chỉ nam” xuyên suốt trong sự chỉ đạo của lãnh đạo Đảng, Chính phủ, trong các Nghị quyết của Bộ Chính trị về chiến lược phát triển ngành Dầu khí Việt Nam trong 60 năm qua.
Phát triển ngành Dầu khí từ số “0”
Quyết sách đầu tiên của Đảng và Bác Hồ là nhanh chóng đào tạo đội ngũ cán bộ dầu khí. Song song với việc cử học sinh sang các trường đại học dầu khí danh tiếng ở Liên Xô, Rumani, công tác đào tạo còn được phát triển tại chỗ thông qua sự hợp tác với Liên Xô giúp tìm kiếm và khoan ở Đồng bằng sông Hồng với công nghệ và thiết bị khá tiên tiến thời bấy giờ.
Đoàn Thăm dò Dầu lửa 36 trực thuộc Tổng cục Địa chất được thành lập ngày 27-11-1961 với nhiệm vụ tiến hành tìm kiếm, thăm dò dầu hỏa và khí đốt trên phạm vi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sự ra đời của Đoàn Dầu lửa 36 khi đất nước đang dốc toàn sức cho cuộc kháng chiến gian khổ và phải triển khai tìm kiếm dầu khí dưới bom đạn của đế quốc Mỹ thể hiện sự quyết tâm rất lớn của Đảng, Chính phủ thực hiện ý nguyện của Bác Hồ.
Dù với bao khó khăn, thiếu thốn do chiến tranh ác liệt kéo dài, công tác tìm kiếm và khoan thăm dò dầu khí vẫn liên tục được duy trì ở Đồng bằng Bắc Bộ. Phải sau 15 năm, chúng ta mới phát hiện được dòng khí thiên nhiên và condensate có giá trị thương mại tại giếng khoan 61 Tiền Hải - Thái Bình ngày 18-3-1975 và những mét khối khí đầu tiên từ mỏ khí Tiền Hải được khai thác dẫn đến trạm turbine khí phát điện ngày 19-4-1981.
Ngay sau khi hòa bình lập lại, dựa trên đánh giá tiềm năng lớn về dầu khí thềm lục địa Việt Nam, Bộ Chính trị đã có Nghị quyết số 244-NQ/TW thành lập Tổng cục Dầu mỏ và Khí đốt với nhiệm vụ xây dựng nền công nghiệp dầu khí đồng bộ từ thăm dò, khai thác đến chế biến dầu khí, phát huy nội lực và mở rộng hợp tác quốc tế..., một quyết định quan trọng, có ý nghĩa chiến lược. Nhiều hợp đồng dầu khí được ký kết để tìm kiếm, thăm dò dầu khí ở thềm lục địa phía Nam Việt Nam với kỳ vọng nguồn dầu khai thác sẽ là động lực vực nền kinh tế đất nước đi lên sau chiến tranh. Nhưng do cấm vận và đặc biệt cuộc chiến tranh biên giới đã làm gián đoạn tiến trình đó, các công ty tư bản đã ra đi, chấm dứt các hợp đồng thăm dò dầu khí năm 1979.
Kỳ vọng về nguồn dầu khai thác từ thềm lục địa Việt Nam tưởng chừng sụp đổ, nhưng với quyết tâm kiên trì xây dựng ngành Dầu khí làm động lực phát triển nền kinh tế, Bộ Chính trị đã quyết định ký Hiệp định Hợp tác chiến lược với Liên Xô, trong đó có việc thành lập liên doanh hợp tác thăm dò và khai thác dầu khí trên một số lô ở thềm lục địa phía Nam Việt Nam. Quyết sách quan trọng này đã tạo bước ngoặt lịch sử, làm tiền đề để xây dựng nền công nghiệp dầu khí ngày nay.
Năm 1981 cũng là năm ký Hiệp định thành lập Xí nghiệp Liên doanh Dầu khí Việt Xô (nay là Liên doanh Việt - Nga Vietsovpetro) tại Vũng Tàu theo Hiệp định Hợp tác tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí ở thềm lục địa phía Nam Việt Nam giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Liên Xô (cũ).
Từ khi Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro được thành lập, hoạt động xây dựng căn cứ trên bờ được đẩy mạnh. Sau 3 năm chuẩn bị, ngày 25-12-1983, tàu Mikhain Mirchink đã khoan giếng thăm dò BH-5 đầu tiên tại mỏ Bạch Hổ và 20 giờ ngày 30-4-1984, đúng 9 năm sau ngày Giải phóng hoàn toàn miền Nam, các chuyên gia Việt Nam và Liên Xô trên tàu khoan Mikhain Mirchink phát hiện thấy tầng dầu và 21 giờ ngày 26-5-1984, tầng dầu này được xác định là tầng dầu công nghiệp, ngọn lửa dầu đã rực sáng trên biển ngoài khơi Vũng Tàu.
Ngày 26-6-1986, Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro khai thác tấn dầu đầu tiên từ mỏ Bạch Hổ, ghi tên Việt Nam vào danh sách các nước khai thác và xuất khẩu dầu thô trên thế giới.
Ngày 6-9-1988, việc phát hiện và tổ chức khai thác hiệu quả với sản lượng cao tầng dầu trữ lượng lớn trong đá móng nứt nẻ mỏ Bạch Hổ đã đi vào lịch sử khai thác dầu khí thế giới. Đó là tiền đề để thực hiện Nghị quyết số 15 NQ/TW của Bộ Chính trị năm 1988, tạo bước ngoặt lịch sử quan trọng tiếp theo - định hướng chiến lược xây dựng và phát triển nền công nghiệp dầu khí Việt Nam đồng bộ, đa ngành, hiện đại với chuỗi hoàn chỉnh các khâu công nghệ, xây dựng nội lực và hội nhập quốc tế sâu rộng. Ngoài công nghiệp khai thác dầu biển, công nghiệp khí và chế biến dầu khí cũng được hình thành với việc đưa khí vào bờ năm 1995, nhà máy đạm được đưa vào hoạt động năm 2003, hình thành khu công nghiệp khí - điện - đạm Phú Mỹ, Cà Mau và Nhà máy Lọc dầu Dung Quất, Nhà máy Lọc hóa dầu Nghi Sơn... Lĩnh vực dịch vụ kỹ thuật công nghệ cao được phát triển với các công trình khai thác dầu khí biển tiêu chuẩn quốc tế, chế tạo dàn khoan tự nâng hiện đại có khả năng khoan thăm dò ở độ sâu 100 mét nước..
Đến năm 2006, sau khi thực hiện thành công Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngành Dầu khí Việt Nam bước sang một thời kỳ lịch sử mới. Kết luận số 41-KL/TW của Bộ Chính trị và Chiến lược phát triển ngành Dầu khí Việt Nam đến năm 2015, định hướng đến năm 2025 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tiếp tục định hướng và tạo thuận lợi hình thành, phát triển mô hình tập đoàn kinh tế đa ngành, hoàn chỉnh chuỗi giá trị công nghiệp dầu khí, đầu tư ra nước ngoài, xây dựng thương hiệu quốc tế.
Đây là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất, mạnh mẽ nhất. Ngành Dầu khí đã xây dựng được hệ thống công nghiệp dầu khí hoàn chỉnh, đồng bộ từ tìm kiếm, thăm dò, khai thác đến phát triển công nghiệp khí - điện - chế biến và dịch vụ dầu khí, góp phần quan trọng bảo đảm an ninh năng lượng cho đất nước, xây dựng đội ngũ kỹ thuật lành nghề làm chủ khoa học công nghệ, quản lý điều hành nhiều khâu trong chuỗi công nghệ dầu khí. Ngành Dầu khí Việt Nam đã có đóng góp to lớn cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thực hiện hiệu quả vai trò là đầu tàu kinh tế, là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô của Chính phủ.
Những sự kiện và thành quả quan trọng đó đã khẳng định tầm nhìn chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh, làm nền tảng để xây dựng và phát triển ngành công nghiệp dầu khí hiện đại của Việt Nam. Trên từng giai đoạn phát triển thời gian qua, ở các bước ngoặt lịch sử của ngành Dầu khí đều ghi nhận dấu ấn và sự chỉ đạo của Đảng, Bộ Chính trị, thấm nhuần tư tưởng của Bác Hồ.
Chiến lược phát triển trong giai đoạn mới
Hiện nay, hoạt động dầu khí phải đối mặt với tình trạng thuận lợi ít đi, khó khăn và thách thức nhiều hơn. Làm thế nào để tiếp tục thực hiện ý nguyện của Bác Hồ, duy trì sự phát triển bền vững của ngành Dầu khí Việt Nam?
Nhiều mỏ dầu chủ lực đóng góp sản lượng quan trọng cho Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) sau 20-30 năm khai thác như Bạch Hổ, Sư Tử, Rạng Đông, Lan Tây cung cấp gần 600 triệu tấn dầu khí quy đổi (Toe) đã qua giai đoạn khai thác đỉnh, sản lượng khai thác suy giảm, đòi hỏi phải đầu tư thêm các giải pháp công nghệ để tận khai (tận thu hồi dầu), trong khi các mỏ mới được đưa vào khai thác chậm do thiếu vốn, vướng mắc các thủ tục đầu tư, gây khó khăn để duy trì và gia tăng sản lượng khai thác, mở rộng thăm dò.
Hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí hiện tập trung ở vùng biển nông đến 200m, để gia tăng trữ lượng và duy trì sản lượng lâu dài cần phải tiến ra vùng biển xa bờ, nước sâu đến trên 1.000m, đòi hỏi vốn đầu tư lớn, nhân lực có trình độ kỹ thuật và công nghệ cao, điều mà PVN hiện chưa thể có. Hơn nữa, đây là vùng biển có nhiều bất cập về an ninh chính trị, rủi ro tiềm ẩn trong việc triển khai thăm dò và phát triển các mỏ ở vùng nước sâu, xa bờ.
Các doanh nghiệp dịch vụ kỹ thuật công nghệ cao cũng lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Quy mô hoạt động dầu khí thu hẹp, giá dịch vụ cũng rớt thê thảm theo biến động giá dầu nhưng chậm hồi phục, trong lúc Luật Đấu thầu không tạo sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước, ở nước ngoài thì bảo hộ nội địa gia tăng.
Các cơ chế chính sách cho ngành Dầu khí chưa kịp thời thay đổi, có nhiều quy định trong các luật chi phối hoạt động dầu khí như Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư, Luật Xây dựng xung đột với “Hợp đồng khung dầu khí”, Luật Dầu khí, thông lệ dầu khí quốc tế, không phù hợp với bối cảnh hội nhập kinh tế sâu rộng, chưa hỗ trợ đủ để các doanh nghiệp dầu khí vượt qua sự cạnh tranh khốc liệt không những do sức ép của sự biến động tiêu cực của giá dầu mà quan trọng hơn là sự đòi hỏi phải đầu tư đổi mới công nghệ, nhanh chóng ứng dụng và phát triển các thành quả của cách mạng công nghiệp 4.0, tăng sức hấp dẫn đầu tư nước ngoài.
Câu hỏi đặt ra: Trữ lượng dầu khí cạn kiệt thì tương lai phát triển dầu khí sẽ ra sao?
Sau 35 năm khai thác tấn dầu đầu tiên, trữ lượng và sản lượng của những mỏ dầu khí lớn sau thời gian dài khai thác bị suy giảm, đó là quy luật. Nhưng tài nguyên dầu khí vẫn còn, theo thống kê trong các bể trầm tích hiện đang khai thác dầu khí, chưa kể các bể Phú Khánh, Tư Chính - Vũng Mây, khu vực nam bể sông Hồng, thì trữ lượng thu hồi còn lại trong các bể truyền thống này đủ để đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước theo Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia đến 2045, nhưng đòi hỏi phải có cách tiếp cận khác, giải pháp khoa học công nghệ phù hợp, cơ chế chính sách linh hoạt “kiến tạo”, Nhà nước - doanh nghiệp cùng phát triển, đặc biệt khi tình hình địa chính trị - kinh tế quốc tế, an ninh - chính trị Biển Đông có những biến động không thuận lợi để mở rộng địa bàn hoạt động dầu khí.
Dầu khí vẫn là tài nguyên chiến lược của tất cả các quốc gia, là năng lượng chiến lược trong thế kỷ XXI của thế giới, trong đó có Việt Nam. Trách nhiệm của dầu khí là phải bảo đảm tỷ phần quan trọng trong cân đối năng lượng sơ cấp và là động lực chủ lực có tính lan tỏa để phát triển kinh tế đất nước đến năm 2035, tầm nhìn 2045.
Để tiếp tục thực hiện ý nguyện của Bác Hồ, phát triển ngành Dầu khí trong giai đoạn mới đầy biến động và thách thức, Bộ Chính trị đã có Nghị quyết 41-NQ/TW với mục tiêu tổng quát: “Phát triển ngành Dầu khí thành ngành kinh tế kỹ thuật quan trọng, then chốt, hoàn chỉnh, đồng bộ... có tiềm lực mạnh về tài chính, khoa học - công nghệ, sức cạnh tranh cao, chủ động và tích cực hội nhập...” và “Phát triển ngành Dầu khí gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược biển, an ninh năng lượng, gắn với nhiệm vụ quốc phòng - an ninh - đối ngoại, phát triển với hiệu quả kinh tế cao, bền vững... nâng cao năng lực cạnh tranh”... Nghị quyết 41 của Bộ Chính trị là “kim chỉ nam” cho hoạt động của ngành Dầu khí Việt Nam, là nền tảng thống nhất hành động thực hiện ý nguyện của Bác Hồ - xây dựng nền công nghiệp dầu khí phát triển hiện đại, đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Mặc dù trên con đường xây dựng và phát triển ngành Dầu khí Việt Nam, đã có những sai sót, vấp ngã, thiệt hại, nhưng nhìn lại 60 năm thực hiện ý nguyện của Bác Hồ, những thành tựu kỳ diệu của ngành Dầu khí rất đáng tự hào và trân trọng. Đó là thành quả của tầm nhìn vĩ đại, thiên tài của Bác Hồ, là trí tuệ và quyết tâm, sự chỉ đạo sáng suốt kịp thời của Bộ Chính trị, Chính phủ, là kết quả của lao động sáng tạo, kiên trì, lòng kính yêu đối với Bác Hồ của nhiều thế hệ người dầu khí.
Những người dầu khí quyết tâm lao động sáng tạo, phát huy tiềm năng nội lực với tinh thần “đổi mới” để ngành công nghiệp dầu khí tiếp tục phát triển trong giai đoạn mới ổn định, hiện đại, có uy tín trên thị trường thế giới, xứng đáng với sự kỳ vọng của Bác Hồ đã trao cho các thế hệ người lao động dầu khí.